Về mối quan hệ giữa hoàng việt luật lệ và đại thanh luật lệ

“Hoàng Việt luật lệ” là bộ luật thành
văn của triều Nguyễn – triều đại quân chủ
cuối cùng ở Việt Nam. Mối quan hệ giữa
“Hoàng Việt luật lệ” với các bộ luật khác
trong lịch sử chế độ quân chủ ở Việt Nam
cũng như với các bộ luật ở Trung Hoa (nhất
là luật nhà Thanh) đã được nhiều học giả
trong nước và ngoài nước tìm hiểu ở những
góc độ khác nhau.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi
muốn tìm hiểu thêm mối quan hệ giữa
“Hoàng Việt luật lệ” của nhà Nguyễn với
“Đại Thanh luật lệ” của nhà Thanh, trên cơ
sở khảo cứu một cách cụ thể văn bản của
“Hoàng Việt luật lệ” và “Đại Thanh luật lệ”
(từ cấu trúc bộ luật đến số lượng, tên gọi
điều luật, nội dung các điều luật, điều lệ) để
hy vọng có được cái nhìn khách quan hơn
đối với “Hoàng Việt luật lệ”.
1. Kết cấu và tên gọi của bộ luật
Xét về kết cấu, các điều khoản trong
“Hoàng Việt luật lệ” chia làm luật và lệ. Kết
cấu này mô phỏng bộ luật của nhà Thanh ở
Trung Quốc, không giống với kết cấu của bộ
“Quốc triều hình luật” nhà Lê trước đó.
Theo quan niệm của người Trung Hoa, luật
là “thường pháp muôn đời”, tức là các điều
khoản chép từ các bộ luật cổ, được coi như
khuôn vàng thước ngọc không thể bỏ được, dù
có thể các điều luật ấy đã trở lên lỗi thời,
không còn phù hợp với thực tiễn xã hội nữa.
Lệ không phải là tục lệ mà nguyên là
những bản xử án trong thực tế, được xét là
quan trọng nên đưa thêm vào bộ luật. Các
điều lệ bổ sung kèm với các điều luật làm
bớt đi tính lý thuyết của bộ luật, phù hợp hơn
với thực tiễn xã hội đương thời. Vì thế, các
điều lệ thường có tính thực tiễn hơn so với
điều luật.
Cách kết cấu điều khoản thành hai phần
luật và lệ vừa bảo đảm được tính ổn định của
luật pháp, vừa thể hiện sự linh hoạt trong
quá trình thực hiện các quy định pháp luật,
thuận tiện cho người thi hành và người chấp
hành luật. Đây được đánh giá là bước tiến
mới trong lịch sử lập pháp của nhà Minh –
Thanh ở Trung Hoa. Do vậy, việc nhà
Nguyễn tiếp thu cách kết cấu của bộ luật nhà
Thanh cũng phần nào dễ lý giải. Cũng giống
như cách nhà Thanh đã bảo lưu kết cấu của
bộ “Đại Minh luật tập giải phụ lệ” cuối thời
Minh trong bộ luật của triều đại mình [1].
Vì kết cấu bộ luật mô phỏng của nhà
Thanh nên tên gọi của bộ luật nhà Nguyễn
không phải là Hình thư như nhà Lý, nhà
Trần hoặc Quốc triều hình luật của nhà Lê
mà là “Hoàng Việt luật lệ”, như luật nhà
Thanh là “Đại Thanh luật lệ”.
NguyÔn thu thuû
Nghiªn cøu Trung Quèc sè 7(119) – 2011 70
Giống như “Đại Thanh luật lệ”, “Hoàng
Việt luật lệ” ngoài quyển đầu là mục lục các
điều luật, bảng (hay đồ), thể lệ về phục tang,
diễn giải thuật ngữ, các quyển còn lại được chia
thành 6 thể loại, tương ứng với việc của 6 bộ:
Lại, Bộ, Lễ, Binh, Hình, Công. Chi tiết như sau:
Quyển thứ 1: Mục lục điều luật, bảng
(hay đồ), thể lệ về trang phục tang, diễn giải
thuật ngữ; Quyển thứ 2 và 3: Danh luật lệ,
45 điều; Quyển thứ 4 và 5: Lại luật, 27 điều;
Quyển thứ 6, 7 và 8: Hộ luật, 66 điều; Quyển
thứ 9: Lễ luật, 26 điều; Quyển thứ 10 và 11:
Binh luật, 58 điều; Quyển thứ 12 đến 20:
Hình luật, 166 điều; Quyển thứ 21: Công
luật, 10 điều; Quyển thứ 22: Dẫn điều luật
Trong từng phần Lại luật, Công luật, Hộ
luật, Lễ luật, Binh luật, Hình luật thì các đề mục
cũng giống hoàn toàn với bộ luật nhà Thanh.
Ngoài ra, cách trình bày in ấn của
“Hoàng Việt luật lệ” cũng giống với bộ luật
nhà Thanh. Ngoài các điều luật, điều lệ còn
có mấy điểm đáng lưu ý sau đây:
– Ở trên đầu trang giấy có những điều chú
thích in bằng chữ nhỏ để cho biết nguồn gốc
của các điều luật, hoặc cho biết những bản
án có liên quan đến điều luật ấy.
– Trong mỗi điều luật, điều lệ in chữ lớn
thường có in xen chữ nhỏ để chú thích các
lời lẽ hoặc danh từ trong điều luật.
– Sau các điều luật còn có những điều chú
giải chính văn, theo đó, các câu văn trong
luật được trình bày lại dưới một hình thức
khác cho dễ hiểu.
Sự giống nhau về mặt hình thức như vậy
dĩ nhiên sẽ đem đến những ảnh hưởng về
mặt nội dung của bộ “Đại Thanh luật lệ” đối
với bộ “Hoàng Việt luật lệ”.
2. Số lượng, tên gọi và nội dung các
điều luật
Về số lượng điều luật, “Hoàng Việt luật
lệ” ít hơn “Đại Thanh luật lệ” 38 điều. 38
điều luật này được chia ra các phần như sau:
Bảng 1: So sánh số lượng điều luật giữa Hoàng Việt luật lệ và Đại Thanh luật lệ [2]
Nội dung so sánh Hoàng Việt luật lệ Đại Thanh luật lệ
Mục lục về tên gọi luật lệ 45 46
Lại luật Chế độ quan chức 13 14
Dân 11 15
Điền trạch (ruộng, nhà) 10 11
Hôn nhân 16 17
Thương khố 22 23
Hạn thuế 2 8
Hộ luật
Cấm buôn bán, họp chợ 2 5
Quân chính 20 21
Đồn canh xét trên đất trên sông 5 7
Chăn nuôi, chuồng trại 5 11
Binh luật
Bưu dịch 12 16
Kiện thưa 11 12
Nhận của đút lót 9 11
Hình luật
Phạm gian 9 10
Công luật Xây cất 6 9
VÕ mèi quan hÖ gi÷a…
Nghiªn cøu Trung Quèc sè 7(119) – 2011 71
Về tên gọi của các điều luật, đại bộ phận
các điều luật trong luật nhà Nguyễn đều có
tên gọi giống với các điều luật trong luật
Thanh. Có thể tham khảo bảng sau đây:
Bảng 2: So sánh tên gọi giữa các điều luật của Hoàng Việt luật lệ và Đại Thanh luật lệ [3]
Tên các mục
Tổng số điều
luật của
Hoàng Việt
luật lệ
Số lượng điều
luật có tên gọi
giống luật
Thanh
Số lượng điều
luật có tên gọi
khác luật
Thanh
Mục lục về tên gọi luật lệ 45 44 1(điều 44)
Chế độ quan chức 13 13 0 Lại luật Công chức thông dụng 14 14 0
Dân 11 10 1(điều 74)
Điền trạch 10 9 1 (điều 90)
Hôn nhân 16 16 0
Thương khố 22 22 0
Hạn thuế 2 2 0
Cho vay tiền 3 3 0
Hộ luật
Cấm buôn bán, họp chợ 2 2 0
Tế tự 6 6 0 Lễ luật Nghi chế 20 19 1(điều 164)
Vệ cấm 16 16 0
Quân chính 20 20 0
Đồn canh xét trên đất trên
sông
5 5 0
Chăn nuôi, chuồng trại 5 5 0
Binh luật
Bưu dịch 12 12 0
Giặc trộm 28 28 0
Nhân mạng 20 20 0
Đánh lộn 22 21 1(điều 274) Hình luật
Mắng nhiếc 8 8 0
Kiện thưa 11 11 0
Nhận của đút lót 9 9 0
Trá ngụy 11 11 0
Phạm gian 9 9 0
Tạp phạm 11 11 0
Bắt câu lưu 8 8 0
Phán quyết 29 29 0
Xây cất 6 6 0 Công luật
Đê điều 4 4 0
NguyÔn thu thuû
Nghiªn cøu Trung Quèc sè 7(119) – 2011 72
Trong số những điều luật khác tên kể trên
thì có hai điều (điều luật thứ 74 “Ẩn lậu dân
đinh” và điều luật thứ 164 “Trở nhân gia
sự”) là của riêng nhà Nguyễn, không tham
khảo, sao chép luật nhà Thanh.
Điều luật thứ 44 “Đồ lưu địa phương”
của “Hoàng Việt luật lệ” bỏ đi hai chữ “thiên
đồ” so với điều luật thứ 45 “Đồ lưu thiên đồ
địa phương” của luật Thanh, trong nội dung
có thay đơn vị hành chính tỉnh bằng doanh
trấn, lược bỏ một câu cuối và tên các địa
phương lưu giữ người phạm tội lưu, tội đồ,
còn đại thể nội dung của điều luật “Đồ lưu
thiên đồ địa phương” trong “Đại Thanh luật
lệ” vẫn được bảo lưu [4].
Điều luật thứ 90 “Đạo canh giá(稼)quan
dân điền” của luật Nguyễn, so với điều luật
thứ 96 “Đạo canh chủng(種) quan dân
điền” trong luật Thanh tuy khác nhau một
chữ nhưng nội dung hầu như không cải biến
chút nào so với luật Thanh [5].
Điều luật thứ 274 “Tôn thất thân bị ẩu”
(Tôn thất, thân thuộc bị đánh) trong “Hoàng
Việt luật lệ” và điều luật thứ 305 “Tôn thất
giác la dĩ thượng thân bị ẩu” trong “Đại
Thanh luật lệ” tuy tên gọi bỏ bớt đi bốn chữ
“giác la dĩ thượng” nhưng trong nội dung
điều luật chỉ bỏ bớt đối tượng “giác la dĩ
thượng” còn hình phạt là giống điều luật của
nhà Thanh [6].
Về nội dung của các điều luật, nếu làm
một phép so sánh tỉ mỉ giữa “Hoàng Việt
luật lệ” và “Đại Thanh luật lệ” thì thấy,
ngoại trừ những điều kể trên, còn khoảng vài
chục điều trong luật Nguyễn không sao chép
nguyên xi mà mô phỏng lại trên tinh thần
giữ lại tên gọi và những nội dung cơ bản của
các điều luật nhà Thanh có cải biến chút ít.
Cụ thể như sau:
Phần “Danh luật lệ”, điều luật thứ 33
“Hóa ngoại nhân hữu phạm” (Giáo hóa
người nước ngoài phạm tội) của “Hoàng Việt
luật lệ” tên gọi giống điều luật thứ 34 của
“Đại Thanh luật lệ” nhưng nội dung thì hoàn
toàn khác nhau. Luật Nguyễn quy định:
“Phàm người nước ngoài (đã hàng phục) mà
phạm tội thì đều căn cứ theo luật để xét.
Người nước ngoài đã đến quy phụ thì là dân
của nhà vua, nếu mắc tội cứ chiếu theo luật
xét xử để chứng tỏ không phải là ngoài” [7].
Trong khi đó, điều luật này của nhà Thanh
nói về đối tượng những vùng còn lạc hậu
phạm tội: “Những người vùng lạc hậu (đã
hàng phục) nếu phạm tội vẫn chiếu theo luật
mà xét xử. Bắt được những người ở những
vùng lệ thuộc vẫn chiếu theo lệ đã định với
người Mông Cổ để xét xử” [8].
Các điều luật còn lại trong “Hoàng Việt
luật lệ” khác “Đại Thanh luật lệ” có thể
phân thành mấy loại như sau:
Thứ nhất, một số điều luật của “Hoàng
Việt luật lệ” chỉ thay đổi một chữ viết, các
nội dung khác vẫn giữ nguyên. Những điều
luật thuộc loại này chia thành hai loại nhỏ.
1. Những điều luật thay đổi một chữ viết
nhưng âm đọc và nghĩa vẫn giống nhau.
VÕ mèi quan hÖ gi÷a…
Nghiªn cøu Trung Quèc sè 7(119) – 2011 73
Bảng 3.1: Sự thay đổi chữ viết từ Đại Thanh luật lệ đến Hoàng Việt luật lệ [9]
Đại Thanh
luật lệ
Hoàng Việt
luật lệ
Ý nghĩa Điều luật của
Hoàng Việt luật lệ
箇 (gè) 個 (gè) cái, con, quả… 1, 8
逃 (táo) 迯 (táo) Trốn chạy, tháo chạy 24, 26, 168, 191, 198, 364
回 (huí) 囘 (huí) trở về, quay lại… 65, 372
Tuy vậy, cũng cần lưu ý rằng, không phải
trong mọi trường hợp chữ 箇 đều viết thành
chữ 個, chữ 逃 viết thành chữ 迯, chữ 回 viết
thành chữ 囘 trong “Hoàng Việt luật lệ”.
Nhiều điều luật chữ 箇,逃 đều được giữ
nguyên giống như trong luật Thanh. Hoặc có
lúc chính luật Thanh cũng dùng chữ 個, chữ
迯 và chữ 囘.
Những chữ trên tuy được viết khác nhau
trong văn bản của hai bộ luật nhưng âm đọc
và nghĩa đều giống nhau. Do đó, sự thay đổi
này không làm biến đổi nội dung của điều
luật nên có thể coi về cơ bản những điều luật
thuộc loại này vẫn giống điều luật của nhà
Thanh.
2. Cùng một chữ trong “Đại Thanh luật
lệ” nhưng được viết thành nhiều chữ khác
nhau trong “Hoàng Việt luật lệ”.
Bảng 3.2: Sự thay đổi chữ viết từ Đại Thanh luật lệ đến Hoàng Việt luật lệ [10]
Đại Thanh luật lệ Hoàng Việt
luật lệ
Ý nghĩa Điều luật của Hoàng Việt
luật lệ
囘 (huí)
trở về, quay lại, quanh co,
vòng vo, trả lời, báo đáp…
14, 16, 75, 76, 77, 84, 94,
95, 98, 103, 114, 115, 116,
117, 124, 134, 157, 162,
198, 209, 305, 317
囬 (huí) trở về, quay lại… 106, 108, 143
回 (huí) trở về, quay lại… 80, 91, 220
歸 (guī) trở về, quay về… 12, 13, 23
復 (fù) trùng lặp, sao chép, trở đi,
trở lại 10, 24
紿 (dài) lừa bịp, lừa gạt 109, 207
専 (zhuān) chuyên 123
納 (nà) nạp, tiếp cận, hưởng thụ 126, 137, 134, 194, 207
旋 (xuán) xoay chuyển, trở về, trở lại 198
償 (cháng) đền, đền bù, bồi thường 207, 392, 394
還 (hái) – còn,
vẫn còn…
仍 (réng) dựa vào, vẫn… 231
NguyÔn thu thuû
Nghiªn cøu Trung Quèc sè 7(119) – 2011 74
合 (hé) hợp lại, tất cả, phù hợp… 334
輸 (shū) vận chuyển, quyên tặng,
thua… 391, 393
訖 (qì) hoàn tất, xong xuôi, kết thúc 64
結 (jié) kết quả 67
圑 (pǔ) vườn 77, 97, 98, 103, 108
備 (bèi) chuẩn bị, hoàn bị 213
完 (wán) –
nguyên vẹn, kết
thúc, hoàn thành
固 (gù) kiên cố, vững chắc… 394
曉 (xiǎo) – sáng
sớm
旦 (dàn) sáng sớm 200
Sự khác nhau này đôi chỗ âm đọc khác
nhau, nghĩa có khác biệt chút ít nhưng cũng
không làm thay đổi những nội dung cơ bản
của điều luật, thêm nữa chỉ có một chữ khác
biệt nên những điều luật thuộc loại này cũng
có thể coi là những điều luật giống luật
Thanh.
Thứ hai, một số điều luật trong “Hoàng
Việt luật lệ” lược bớt một số câu chữ trong
luật nhà Thanh.
Chẳng hạn, điều luật thứ 45 “Sung quân
địa phương” trong luật Nguyễn bên cạnh
việc thay thế đơn vị hành chính tỉnh bằng
doanh, trấn và một số chữ trong nội dung
chính đã lược bỏ một phần rất dài nói về các
địa phương lưu giữ người bị sung quân đến
trong luật Thanh.
Điều luật về “Chế thư hữu vi” (Làm sai
chế thư [11]) của “Đại Thanh luật lệ” có nội
dung là: “Phàm phụng chế thư để thi hành
mà (cố tình) vi phạm (không thi hành) đánh
100 trượng, vi phạm mệnh lệnh của Hoàng
thái tử cũng cùng tội. Làm sai ý chỉ đều
được giảm 3 mức tội. Thi hành chậm trễ chế
thư và mệnh lệnh của Hoàng thái tử 1 ngày
đánh 50 roi. Cứ chậm thêm một ngày tăng
thêm một mức tội. Tội đánh đến 100 roi thì
thôi” [12]. Về nội dung này, điều luật 60
trong “Hoàng Việt luật lệ” quy định: “Phàm
phụng chế thư để thi hành mà (cố tình) vi
phạm (không thi hành) đánh 100 trượng.
Làm sai ý chỉ đều được giảm 3 mức tội. Thi
hành chậm trễ chế thư 1 ngày đánh 50 roi.
Cứ chậm thêm một ngày tăng thêm một mức
tội. Tội đánh đến 100 roi thì thôi” [13]. So
với luật nhà Thanh, luật Nguyễn lược bỏ
mệnh lệnh của Hoàng thái tử. Câu lược bỏ
này không làm cho nội dung của điều luật
thay đổi vì các mức án phạt đều giống nhau
nhưng cũng cho thấy thời Thanh ở Trung
Quốc quyền hành của Hoàng thái tử tương
đối lớn. Những mệnh lệnh của Hoàng thái tử
trong những điều kiện nhất định cũng có giá
trị như mệnh lệnh của vua.
Điều luật “Xuất sứ bất phụng mệnh” (Đi
sứ về không tâu trình) trong “Đại Thanh luật
lệ” quy định: “Phàm phụng chế sắc đi sứ
(việc đi sứ đã xong) không về tâu trình mà
tham dự vào việc khác (không liên quan đến
việc đi sứ) thì bị đánh 100 trượng. Các nha
môn đi sứ (đề đạt những việc tinh vi để phê
chuẩn và những việc được giao phó việc đi
VÕ mèi quan hÖ gi÷a…
Nghiªn cøu Trung Quèc sè 7(119) – 2011 75
sứ đã xong) không về tâu trình lại tham dự
vào việc khác (tham dự vào) việc bình
thường bị đánh 70 trượng. Nếu là việc quân
quan trọng thì bị đánh 100 trượng. Nếu (việc
đi sứ chưa xong) vượt về lí (về lí không làm
được), xâm phạm về phận (phận sự không
được làm), xâm phạm vào chức năng làm
việc của người khác, bị đánh 50 roi. Nếu trở
về sau 3 ngày không giao nộp thánh chỉ (chế
sắc) phạt 60 trượng, 2 ngày tăng thêm một
bậc tội, tội đánh đến 100 roi thì thôi, nếu
không giao nộp ấn tín đánh 40 roi, 3 ngày
tăng thêm một bậc tội, tội đánh đến 80
trượng thì thôi. Nếu (hoặc việc đi sứ không
bình thường hoặc thánh chỉ, ấn tín bị hỏng)
mà trốn tránh (không tâu trình không giao
nộp) luận theo tội đồ nặng” [14].
“Hoàng Việt luật lệ” về nội dung này quy
định: “Phàm phụng chế sắc đi sứ (việc đi sứ
đã xong) không về tâu trình mà tham dự vào
việc khác (không liên quan đến việc đi sứ)
thì bị đánh 100 trượng. Các nha môn đi sứ
(đề đạt những việc tinh vi để phê chuẩn và
những việc được giao phó việc đi sứ đã xong)
không về tâu trình lại tham dự vào việc khác
(tham dự vào) việc bình thường bị đánh 70
trượng. Nếu là việc quân quan trọng thì bị
đánh 100 trượng. Nếu (việc đi sứ chưa xong)
vượt về lí (về lí không làm được), xâm phạm
về phận (phận sự không được làm), xâm
phạm vào chức năng làm việc của người
khác, bị đánh 50 roi” [15]. So với điều luật
của “Đại Thanh luật lệ” điều luật của nhà
Nguyễn lược bỏ một đoạn dài phía sau. Việc
lược bỏ này không làm thay đổi nội dung
điều luật mà chỉ làm cho điều luật của
“Hoàng Việt luật lệ” không dài dòng nhưng
kém tính chi tiết, cụ thể so với điều luật của
nhà Thanh.
Các điều luật 78, 89, 132, 138, 139, 234,
355, 356, 391… của “Hoàng Việt luật lệ”
cũng tương tự như vậy. Những điều luật này
chỉ thêm vào hoặc bớt đi một vài từ, một vài
câu còn nội dung cơ bản của điều luật trong
luật Thanh hầu như vẫn được giữ lại nguyên
vẹn và bản chất của điều luật là không thay
đổi.
Thứ ba, một số điều luật trong “Hoàng
Việt luật lệ” đã lược bỏ, thay đổi một số tiểu
tiết của luật nhà Thanh cho phù hợp hơn với
Việt Nam.
Chẳng hạn, điều luật “Ngũ hình” trong
luật Thanh gậy trượng làm bằng “trúc” được
thay bằng “song” trong luật Nguyễn. Một số
điều luật thay đổi đơn vị hành chính tỉnh của
Trung Quốc thành doanh, trấn của Việt
Nam, chức danh lý trưởng của Trung Quốc
bằng xã trưởng của Việt Nam. Điều này hợp
lý với thiết chế xã hội Việt Nam đầu thế kỷ
XIX khi “Hoàng Việt luật lệ” được ban
hành. Những điều luật thuộc loại này như
điều 32 “Xử quyết phản quân”, điều 44 “Đồ
lưu địa phương”, điều 45 “Sung quân địa
phương”, điều 80 “Đào tị sai dịch”, điều 141
“Trí tế tự điển thần kỳ”…
Luật Nguyễn, điều luật thứ 222 “Thừa
quan súc sản xa thuyền phu tư vật” (Cưỡi
ngựa, ngồi trên thuyền công mang kèm theo
đồ riêng), chỉ bỏ bớt những loại súc vật (la,
lừa, lạc đà…) và cối xay [16] còn lại nội
dung và mức hình phạt giống hoàn toàn với
điều luật 252 của luật Thanh. Điều luật thứ
207 “Tể sát mã ngưu” (Đánh giết ngựa trâu)
và điều 210 “Tư tá quan súc sản” (Lén
NguyÔn thu thuû
Nghiªn cøu Trung Quèc sè 7(119) – 2011 76
mượn súc sản của nhà quan) của “Hoàng
Việt luật lệ” chỉ loại bỏ một số con vật như:
la, lừa, lạc đà… còn về đại thể nội dung các
mức hình phạt lần lượt giống với điều luật
thứ 233 [17] và 236 [18] của “Đại Thanh
luật lệ”. Các điều luật 23, 209, 239, 317…
của “Hoàng Việt luật lệ” cũng tương tự như
vậy.
Thứ tư, hình phạt trong một số điều luật
của “Hoàng Việt luật lệ” có thay đổi chút ít
so với luật Thanh.
Điều 140 “Ải đại tự khưu đàn” (Phá hủy
đàn tế lớn) của luật Nguyễn đã thay đổi hình
phạt theo hướng tăng lên so với luật Thanh.
Luật Thanh quy định: “Phàm phá hủy, làm
hư hại đàn tế Đại tự không kể là vô tình hay
cố ý đều xử phạt 100 trượng, bắt đi đày xa
2000 dặm. Nếu là hạng Di môn (coi đắp đàn
tế) thì giảm hai bậc (phạt 100 trượng, đồ hai
năm rưỡi)” [19]. Trong khi đó, luật Nguyễn
chỉ giảm một bậc cho hạng Di môn: “Phàm
phá hủy, làm hư hại đàn tế Đại tự không kể
là vô tình hay cố ý đều xử phạt 100 trượng,
bắt đi đày xa 2000 dặm. Nếu là hạng Di môn
(coi đắp đàn tế) thì giảm một bậc (phạt 100
trượng, đồ hai năm rưỡi)” [20].
Điều 237 “Bạch trú sang đoạt” (Cướp
giật giữa ban ngày) luật Thanh quy định:
“…Nguyên cùng người khác ẩu đả hoặc đi
bắt tội phạm, nhân đó lấy trộm của cải, đồ
vật thì tính số tang vật, chuẩn theo luật trộm
cắp luận tội. Nhân đó cướp giật xử nặng
thêm 2 mức, tội phạt mức cao nhất 100
trượng, đày đi 2000 dặm, miễn thích chữ…”
[21]. Mức hình phạt trong luật Nguyễn tăng
lên so với luật Thanh từ “đày đi 2000 dặm”
lên “đày đi 3000 dặm” [22].
Thứ năm, sự khác biệt lớn nhất về mặt nội
dung trong các điều luật của “Hoàng Việt
luật lệ” và “Đại Thanh luật lệ” chính là ở
phần tiểu chú. Các điều luật của nhà Nguyễn
về cơ bản đều kế thừa tiểu chú của luật
Thanh, nhưng trong những trường hợp nhất
định có thêm, bớt cho phù hợp hơn. Mục đích
của việc này là làm sáng rõ thêm nội dung
của các điều luật chứ không nhằm thay đổi
nội dung của điều luật. Số lượng chữ trong
các tiểu chú tăng lên không nhiều nên không
làm nội dung điều luật bị rườm rà.
Lấy điều luật “Thượng thư trần ngôn”
(Dâng thư bày tỏ ý kiến) làm ví dụ. Luật
Thanh quy định: “Phàm các việc như chính
lệnh đúng sai của quốc gia, hay dở của quân
dân, hết thảy các việc hưng lợi trừ hại đều
do các quan sáu bộ vào yết kiến tâu bày khu
xử. Các quan khoa đạo, Đốc phủ ai nấy phải
trình bày ý kiến một cách thẳng thắn, không
được che giấu…” [23]. Luật Nguyễn quy
định: “Phàm các việc như chính lệnh đúng
sai của quốc gia, hay dở của quân dân, hết
thảy các việc hưng lợi trừ hại đều do các
quan sáu bộ vào yết kiến tâu bày khu xử.
Các quan khoa đạo, Đốc phủ (Đốc phủ tức
quan doanh trấn) ai nấy phải trình bày ý
kiến một cách thẳng thắn, không được che
giấu…” [24]. Câu giải thích “Đốc phủ tức
quan doanh trấn” không có trong luật Thanh
nhưng được bổ sung là tiểu chú trong luật
Nguyễn để làm rõ hơn chức vụ Đốc phủ.
Các điều luật 67, 128, 145, 183, 185, 188,
196, 201, 206, 212… cũng tương tự như vậy.
Đặc biệt, đôi khi, trong những trường hợp
nhất định, luật Nguyễn không chỉ tiếp tục sử
dụng các tiểu chú trong luật Thanh mà còn
VÕ mèi quan hÖ gi÷a…
Nghiªn cøu Trung Quèc sè 7(119) – 2011 77
biến các tiểu chú trong luật Thanh thành nội
dung chính trong các điều luật của mình
hoặc ngược lại những phần không phải là
tiểu chú trong luật Thanh lại trở thành tiểu
chú trong luật Nguyễn.
Chẳng hạn, điều luật “Phú dịch bất quân”
(Thuế khóa, tạp dịch không đều), luật Thanh
quy định: “Phàm các quan ti phân thu thuế
lương và bắt phu phen tạp dịch đều phải căn
cứ vào hiện số nhân đinh trong sổ mà định
lập các hạng sai dịch cho đúng. Nếu tha
người giàu, bắt người nghèo đổi thứ hạng
thì gây ra tệ hại, nên cho phép dân nghèo bị
bức hại đó đến cửa quan tố cáo các cấp từ
dưới lên trên. Các quan ti này đều bị xử
đánh 100 trượng (bắt phải sửa lại cho
đúng)…” [25]. Luật Nguyễn quy định:
“Phàm các quan ti phân thu thuế lương và
bắt phu phen tạp dịch đều phải căn cứ vào
hiện số nhân đinh trong sổ mà định lập các
hạng sai dịch cho đúng. Nếu tha người giàu,
bắt người nghèo đổi thứ hạng thì gây ra tệ
hại, nên cho phép dân nghèo bị bức hại đó
đến cửa quan tố cáo các cấp từ dưới lên
trên. Các quan ti này đều bị xử đánh 100
trượng, bắt phải sửa lại cho đúng…” [26].
Câu cuối cùng “bắt phải sửa lại cho đúng”
trong luật Thanh là tiểu chú, trong luật
Nguyễn trở thành nội dung chính của điều
luật. Các điều luật 108, 139, 140, 172, 173,
352, 397… của luật Nguyễn cũng thuộc loại
này.
Điều luật “Công sự ứng hành kê trình”
(Việc công cần kíp nhưng lại trậm trễ), luật
Thanh quy định: “Phàm công việc công có
giải theo đồ vật công, tù nhân, súc vật mà
những người sai nhân quản lý đưa đi mà dây
dưa chậm chạp và tất cả những việc công
đều có kỳ hạn mà chậm trễ, vị phạm thời
hạn, chậm trễ 1 ngày thì xử phạt 20 roi…”
[27]. Luật Nguyễn quy định: “Phàm công
việc công có giải theo đồ vật công, tù nhân,
súc vật mà những người sai nhân quản lý
đưa đi mà dây dưa chậm chạp và những việc
(tất cả là công) đều có kỳ hạn mà chậm trễ,
vị phạm thời hạn, chậm trễ 1 ngày thì xử
phạt 20 roi…” [28]. Câu “tất cả là công”
trong luật Thanh không là tiểu chú thì trở
thành tiểu chú trong luật Nguyễn. Các điều
luật thuộc loại này còn có điều 271, 305,
364, 383…
Trong một số trường hợp, các tiểu chú dài,
rườm rà trong luật Thanh cũng được nhà
Nguyễn lược bớt một phần hoặc thay đổi cho
phù hợp hơn với thực tiễn xã hội Việt Nam,
chẳng hạn như các điều luật 156, 197, 222,
321…
Như vậy, trong tổng số 398 điều luật của
“Hoàng Việt luật lệ”, ngoại trừ 2 điều luật là
của riêng nhà Nguyễn, vài chục điều luật
khác biệt chút ít so với các điều luật của nhà
Thanh, các điều luật còn lại đều sao chép lại
nguyên xi tên gọi lẫn nội dung kể cả các tiểu
chú của các điều luật trong “Đại Thanh luật
lệ”. Những điều luật được xem là khác biệt
của “Hoàng Việt luật lệ” so với các điều luật
của “Đại Thanh luật lệ” thì hoặc là thay đổi
một vài chữ, hoặc là bỏ bớt một phần nội
dung (một số câu trong điều luật), một số chi
tiết không phù hợp với thực tế xã hội Việt
Nam, hoặc là thay đổi hình phạt theo hướng
tăng lên so với luật Thanh, hoặc là cải biến
các tiểu chú… Sự khác biệt này theo chúng tôi,
chưa đủ để tạo nên dấu ấn của nền lập pháp
NguyÔn thu thuû
Nghiªn cøu Trung Quèc sè 7(119) – 2011 78
Việt trong các điều luật của “Hoàng Việt luật
lệ” nhưng nó thể hiện sự cố gắng, nỗ lực của
các nhà làm luật thời Nguyễn trong quá trình
sao chép một bộ luật của một vương triều
khác ở một quốc gia khác, để bớt đi sự khập
khiễng khi áp dụng vào xã hội Việt Nam thời
Nguyễn.
3. Số lượng và nội dung các điều lệ
Trong “Đại Thanh luật lệ”, ngoại trừ việc
sao chép gần như nguyên xi các điều luật
của luật Minh thì những điều lệ đi kèm các
điều luật được coi là một trong những nét
đặc sắc mang tính thời đại của bộ luật nhà
Thanh. Vì, ngoài việc giữ lại gần 300 điều lệ
của luật Minh thì trong quá trình phát triển
triều đại, “Đại Thanh luật lệ” cũng đã thêm
vào rất nhiều điều lệ cho phù hợp với đòi hỏi
của hiện thực xã hội thời Thanh. Những điều
lệ này là sự bổ sung và hoàn thiện hơn các
điều luật, đủ sức điều chỉnh những quan hệ
xã hội mới phát sinh trong quá trình phát
triển của triều đại, giúp cho người thi hành
luật và người thực hiện luật đều thuận tiện.
So với “Đại Thanh luật lệ” thì số lượng
điều lệ của “Hoàng Việt luật lệ” ít hơn rất
nhiều. “Hoàng Việt luật lệ” chỉ có 593 điều
lệ, trong khi “Đại Thanh luật lệ” có đến
1765 điều lệ [29]. Trong số gần 600 điều lệ
này, chỉ có khoảng trên dưới 50 điều lệ là
của riêng nhà Nguyễn, một số điều lệ có thay
đổi chút ít về mặt nội dung hay mức hình
phạt. Còn lại, khoảng hơn 300 điều lệ là sao
chép nguyên xi từ “Đại Thanh luật lệ”.
Sự giảm bớt của số lượng các điều lệ
trong “Hoàng Việt luật lệ” so với “Đại
Thanh luật lệ” cho thấy rõ ràng những nhà
làm luật triều Nguyễn đã có những khảo sát,
cân nhắc kỹ lưỡng để bớt đi những điều lệ
không phù hợp của luật Thanh, giữ lại những
điều lệ phù hợp với xã hội Việt Nam. Số
lượng điều lệ của luật Nguyễn ít hơn so với
luật Thanh cũng cho thấy tính bao quát của
luật pháp lên các mặt của đời sống xã hội
trong luật Nguyễn ít nhiều sẽ kém hơn so với
luật Thanh và tất nhiên mức độ nghiêm khắc
của các hình phạt trong luật Thanh (mở rộng
đối tượng phạm tội, đối tượng bị liên đới,
mức hình phạt…) chắc chắn cũng giảm đi ít
nhiều trong luật Nguyễn.
Lấy điều luật liên quan đến tội Mưu phản
làm ví dụ. “Hoàng Việt luật lệ” và “Đại
Thanh luật lệ” đều có các điều luật: “Mưu
phản đại nghịch”, “Mưu phản”, “Tạo yêu
thư yêu ngôn”. Luật Thanh có 13 điều lệ đi
kèm 3 điều luật này, thì luật Nguyễn chỉ có 6
điều. Theo đó, đối tượng phạm tội mưu
phản, đối tượng liên đới không mở rộng
nhiều như luật Thanh, mức độ hình phạt
cũng nhẹ hơn so với luật Thanh [30].
Trong những điều luật về kinh tế, “Hoàng
Việt luật lệ” lược bỏ hoàn toàn những điều
luật liên quan đến chính sách độc quyền đối
với muối, phèn, chè… Do đó, hơn 30 điều lệ
của các điều luật này trong luật Thanh cũng
bị lược bỏ trong luật Nguyễn [31].
Về chính sách “hải cấm”, luật Nguyễn chỉ
sao chép lại điều luật thứ 225 “Tư xuất ngoại
cảnh cập vi cấm hạ hải” (Lén xuất ngoại và
phạm cấm xuống biển) của luật Thanh, lược
bỏ toàn bộ 36 điều lệ kèm theo điều luật này.
Điều luật của nhà Nguyễn chỉ có 1 điều lệ
VÕ mèi quan hÖ gi÷a…
Nghiªn cøu Trung Quèc sè 7(119) – 2011 79
kèm theo và không phải sao chép từ luật
Thanh [32]. Vì thế, chính sách “hải cấm”
trong luật Nguyễn không có những quy định
cụ thể liên quan đến việc đi biển, đóng
thuyền, buôn bán, giao lưu với người nước
ngoài… như luật Thanh. Và đương nhiên,
điều đó cũng chứng tỏ, cấp độ của chính sách
“hải cấm” của nhà Nguyễn cũng không mạnh
mẽ và nghiêm ngặt như nhà Thanh, ít nhất là
ở phương diện luật pháp.
Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng nhà
Nguyễn và nhà Thanh đều tồn tại trong bối
cảnh lịch sử có nhiều nét tương đồng: cùng
là triều đại của một quốc gia theo hình thái
chế độ quân chủ phương Đông ở giai đoạn
cuối, cùng phải đối mặt với những thách
thức lịch sử trước cơ hội phát triển của quốc
gia…. Điều đó quy định những điểm tương
đồng nhất định trong chính sách quản lý xã
hội và những chế định pháp luật của nhà
Nguyễn và nhà Thanh.
“Hoàng Việt luật lệ” thực tế đã bảo lưu
rất nhiều điều lệ (hơn 300 điều) của “Đại
Thanh luật lệ”, trong số đó, những điều lệ
bảo vệ hạt nhân của chế độ quân chủ là
hoàng quyền và chế độ gia trưởng phụ quyền
gần như được giữ lại nguyên vẹn.
Chẳng hạn, về tội Mưu phản, luật Nguyễn
có 6 điều lệ đi kèm các điều luật, trong đó
3/6 điều lệ là của “Đại Thanh luật lệ”. Hoặc
như điều luật “Biệt tịch dị tài” (Chia gia tài
gia đình khác danh hộ), luật Nguyễn cũng
giữ lại nguyên vẹn những điều lệ bảo vệ chế
độ gia trưởng phụ quyền của điều luật này.
Về luật Hôn nhân, “Hoàng Việt luật lệ”
giữ lại 12/23 điều lệ của luật Thanh (những
điều lệ còn lại của luật Thanh là những quy
định về hôn nhân của các dân tộc thiểu số:
Mông Cổ, Hồi…). Trong số những điều lệ
này có những điều đã tước bỏ hoàn toàn
quyền tự do hôn nhân. Việc hôn nhân đều
bắt buộc phải tuân theo sự sắp xếp của ông
bà, cha mẹ hoặc những người thân.
*
Trên đây là những khảo cứu bước đầu
về mối quan hệ giữa hai bộ luật của nhà
Nguyễn và nhà Thanh (chủ yếu dưới góc độ
văn bản). Kết quả này hi vọng sẽ là nguồn
tham khảo để các nhà luật học, nhà sử học
thêm một góc nhìn về bộ luật “Hoàng Việt
luật lệ”. Ở những bài viết sau, chúng tôi sẽ
đối chiếu kỹ lưỡng hơn bộ luật “Hoàng Việt
luật lệ”, nhất là phần lệ và đặt nó trong mối
tương quan với các bộ luật khác của Trung
Hoa phong kiến (như luật nhà Minh) để có
thể làm rõ thêm một số điểm về đặc điểm và
tính chất của bộ luật “Hoàng Việt luật lệ”.
CHÚ THÍCH:
[1] Chúng tôi đã trình bày vấn đề này ở một
công trình nghiên cứu khác có tên gọi là: “Đại
Thanh luật lệ” đã kế thừa và phát triển luật nhà
Minh như thế nào, Tạp chí Nghiên cứu Trung
Quốc, số 10 (110), tháng 10/2010, tr.77 – 86.
[2], [3], [9], [10] Số liệu tổng hợp từ: 皇越律例
(Hoàng Việt luật lệ – Bản chữ Hán lưu tại Viện Sử
học Việt Nam, KH: HV497); 大清律例 (Đại
Thanh luật lệ – Bản chữ Hán điện tử).
[4] Xin xem thêm: 皇越律例,卷二,名律例
上 (Hoàng Việt luật lệ, Quyển 3, Danh luật lệ hạ,
Sđd); 大清律例,卷五,名律例上 (Đại Thanh
luật lệ, Quyển 5, Danh luật lệ hạ, Sđd).
NguyÔn thu thuû
Nghiªn cøu Trung Quèc sè 7(119) – 2011 80
[5] Xin xem thêm: 皇越律例,卷 6,户律,田
宅 (Hoàng Việt luật lệ, Quyển 6, Hộ luật, Điền
trạch, Sđd); 大清律例,卷九,户律,田宅 (Đại
Thanh luật lệ, Quyển 9, Hộ luật, Điền trạch, Sđd).
[6] Xin xem thêm: 皇越律例,卷十五,刑律,
闘毆 (Hoàng Việt luật lệ, Quyển 15, Hình luật,
Đấu ẩu, Sđd); 大清律例,卷二十五,刑律,闘毆
(Đại Thanh luật lệ, Quyển 27, Hình luật, Đấu ẩu,
Sđd).
[7] 大清律例,卷五,名律例下 (Đại Thanh
luật lệ, Quyển 5, Danh luật lệ hạ, Sđd).
[8] 皇越律例,卷三,名律例下 (Hoàng Việt
luật lệ, Quyển 3, Danh luật lệ hạ, Sđd).
[11] Chế thư là chép lại lời của vua, như các
loại chiếu xá, dụ, sắc.
[12] 大清律例,卷七,史律,公式 (Đại Thanh
luật lệ, Quyển 7, Lại luật, Công thức, Sđd).
[13] 皇越律例,卷五,史律,公式 (Hoàng Việt
luật lệ, Quyển 5, Lại luật, Công thức, Sđd).
[14] 大清律例,卷七,史律,公式 (Đại Thanh
luật lệ, Quyển 7, Lại luật, Công thức, Sđd).
[15] 皇越律例,卷五,史律,公式 (Hoàng Việt
luật lệ, Quyển 5, Lại luật, Công thức, Sđd).
[16] 皇越律例,卷十一,兵律,郵驛 (Hoàng
Việt luật lệ, Quyển 11, Binh luật, Bưu dịch, Sđd);
大清律例,卷二十二,兵律,郵驛 (Đại Thanh luật
lệ, Quyển 22, Binh luật, Bưu dịch, Sđd).
[17] 皇越律例,卷十一,兵律,廄牧 (Hoàng
Việt luật lệ, Quyển 11, Binh luật, Cứu mục, Sđd);
大清律例,卷二十一,兵律,廄牧 (Đại Thanh luật
lệ, Quyển 21, Binh luật, Cứu mục, Sđd).
[18] 皇越律例,卷十一,兵律,廄牧 (Hoàng
Việt luật lệ, Quyển 11, Binh luật, Cứu mục, Sđd);
清律例,卷二十一,兵律,廄牧 (Đại Thanh luật
lệ, Quyển 21, Binh luật, Cứu mục, Sđd).
[19] 大清律例,卷十七,禮律,祭祀 (Đại
Thanh luật lệ, Quyển 17, Lễ luật, Tế tự, Sđd).
[20] 皇越律例,卷九,禮律,祭祀(Hoàng Việt
luật lệ, Quyển 9, Lễ luật, Tế tự, Sđd).
[21] 大清律例,卷二十四,刑律,贼盗中 (Đại
Thanh luật lệ, Quyển 24, Hình luật, Đạo tặc trung,
Sđd).
[22] 皇越律例,卷十二,刑律,贼盗中 (Hoàng
Việt luật lệ, Quyển 12, Hình luật, Đạo tặc trung,
Sđd).
[23] 大清律例,卷二十一,禮律,儀制 (Đại
Thanh luật lệ, Quyển 21, Lễ luật, Nghi chế, Sđd).
[24] 皇越律例,卷九,禮律,儀制 (Hoàng Việt
luật lệ, Quyển 9, Lễ luật, Nghi chế, Sđd).
[25] 大清律例,卷八,戶律,戶役 (Đại Thanh
luật lệ, Quyển 8, Hộ luật, Hộ dịch, Sđd).
[26] 皇越律例,卷六,戶律,戶役 (Hoàng Việt
luật lệ, Quyển 6, Hộ luật, Hộ dịch, Sđd).
[27] 大清律例,卷二十二,兵律,郵驛 (Đại
Thanh luật lệ, Quyển 22, Binh luật, Bưu dịch, Sđd).
[28] 皇越律例,卷十一,兵律,郵驛 (Hoàng
Việt luật lệ, Quyển 11, Binh luật, Bưu dịch, Sđd).
[29] Số liệu tổng hợp từ: 皇越律例 (Hoàng
Việt luật lệ), Sđd; 大清律例 (Đại Thanh luật lệ),
Sđd.
[30] 皇越律例,卷十二,刑律,贼盗上 (Hoàng
Việt luật lệ, Quyển 12, Hình luật, Đạo tặc thượng,
Sđd); 大清律例,卷二十三,刑律,贼盗上 (Đại
Thanh luật lệ, Quyển 23, Hình luật, Đạo tặc
thượng, Sđd).
[31] 大清律例,卷十三,戶律,課程 (Đại
Thanh luật lệ, Quyển 13, Hộ luật, Khóa trình, Sđd).
[32] 皇越律例,卷十一,兵律,關津 (Hoàng
Việt luật lệ, Quyển 11, Binh luật, Quan tấn, Sđd);
大清律例,卷二十,兵律,關津 (Đại Thanh luật
lệ, Quyển 20, Binh luật, Quan tấn, Sđd).

VJOL

Tạp chí khoa học Việt Nam Trực tuyến (Vjol.info) là một dịch vụ cho phép độc giả tiếp cận tri thức khoa học được xuất bản tại Việt Nam và nâng cao hiểu biết của thế giới về nền học thuật của Việt Nam.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *