HỒ CHÍ MINH VỚI QUAN HỆ VIỆT – XÔ TRONG NHỮNG NĂM 1950 – 1969
TÓM TẮT
Ngày 30-01-1950, Liên Xô chính thức thiết lập ngoại giao với Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Sự kiện này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, chấm dứt thời kì “chiến
đấu trong vòng vây” của dân tộc ta. Trong những năm 50, 60 của thế kỉ XX, với đường lối
ngoại giao khôn khéo, tinh tế, mềm dẻo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng bước đưa quan hệ
giữa hai nước Việt Nam – Liên Xô lên một tầm cao mới. Việt Nam đã nhận được nhiều
nguồn viện trợ của Liên Xô trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, quân sự, khoa học kĩ thuật,
giáo dục và chính trị.
Từ khóa: quan hệ Việt – Xô, ngoại giao, viện trợ, Liên Xô.
ABSTRACT
Ho Chi Minh and the Vietnam–The Soviet Union relationship
in the years 1950 – 1969
On 30th January 1950, the Union of Soviet Socialist officially established an external
relation with the Democratic Republic of Vietnam. This event is extremely important,
because it ended the period of “fighting in the siege” of our nation. In the years 1850s and
1860s, with a clever, delicate and flexible external relation strategies, President Ho Chi
Minh has gradually brought relations between the two countries Vietnam –The Soviet
Union to a new level. Vietnam received aids from the Soviet Unionin in all fields including
economic, military, science and technology, education and political supporting.
Keywords: Vietnam – Soviet Union relationship, foreign affair, support, the Soviet
Union.
1. Đặt vấn đề
Sau khi Cách mạng tháng Tám
thành công, nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa phải đối mặt với muôn vàn khó
khăn thử thách, ngoài việc phải đối phó
với giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm,
chúng ta còn bị kẻ thù cô lập, không liên
hệ với bên ngoài. Trước tình hình đó, với
đường lối ngoại giao khéo léo, linh hoạt,
mềm dẻo và nêu cao tinh thần yêu
chuộng hòa bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã sớm gắn cách mạng Việt Nam với cách
* NCS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM
mạng thế giới. Mối quan hệ đó được phát
triển và thắt chặt thành tinh thần quốc tế
vô sản khi Việt Nam thiết lập quan hệ
ngoại giao với Liên Xô vào đầu năm
1950, và trong những thập niên sau đó
(thập niên 60, 70), mối quan hệ Việt – Xô
ngày càng bền vững. Liên Xô đã viện trợ
mọi mặt cho cuộc kháng chiến kiến quốc
của dân tộc Việt Nam.
2. Giải quyết vấn đề
2.1. Thời kì 1950 – 1954
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã
đánh đổ nền thống trị của đế quốc Nhật
và Pháp ở Việt Nam, nước Việt Nam Dân
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 52 năm 2013
_____________________________________________________________________________________________________________
6
chủ Cộng hòa được thành lập. Ngày 02-
9-1945, Chính phủ lâm thời của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phát biểu
Tuyên ngôn độc lập trước quốc dân Việt
Nam và thế giới. Nhưng lúc này, nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đang trong
tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, đối đầu
với nhiều khó khăn: giặc đói, giặc dốt và
giặc ngoại xâm; chính quyền cách mạng
vừa mới thành lập, chưa được củng cố;
lực lượng vũ trang còn non yếu. Nước
Việt Nam mới ra đời, chưa được nhiều
quốc gia biết đến, mặt khác lại bị bọn đế
quốc, thực dân bao vây, cô lập, phải
chiến đấu trong sự đơn độc, không được
hỗ trợ từ bên ngoài. Vì vậy, một trong
những cố gắng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong những năm đầu của cuộc
kháng chiến là nhằm phá vỡ thế bao vây
của kẻ thù, gắn cách mạng Việt Nam với
cách mạng thế giới và tranh thủ sự ủng
hộ của các nước xã hội chủ nghĩa
(XHCN), các lực lượng tiến bộ trên thế
giới cho cuộc kháng chiến chống Pháp.
Sau khi được Trung Quốc đặt quan
hệ ngoại giao (18-01-1950), Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã tới Bắc Kinh (21-01-1950).
Trong cuộc hội đàm với Thủ tướng Chu
Ân Lai và các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà
nước Trung Quốc, Người đã thông báo
tình hình cách mạng Việt Nam, đường lối
chủ trương của Đảng và đề nghị Trung
Quốc ủng hộ cuộc kháng chiến của ta.
Nhân dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đề nghị “Chính phủ Trung Quốc thông
báo cho Xtalin biết Người đang thăm
Trung Quốc và đề nghị được gặp Xtalin
để thông báo cho Chính phủ Liên Xô biết
về tình hình cách mạng Việt Nam. Xtalin
đồng ý và mời Người sang thăm Liên
Xô” [8; tr.180].
Ngày 23-01-1950, thay mặt Chính
phủ Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
Hoàng Minh Giám đã gửi công hàm tới
Bộ trưởng Bộ ngoại giao Liên Xô, đề
nghị hai nước kiến lập quan hệ ngoại
giao chính thức và trao đổi đại sứ.
Đáp lại thiện chí trên, ngày 30-01-
1950, Bộ Ngoại giao Liên Xô đã gửi cho
Bộ Ngoại giao Việt Nam công hàm thông
báo Chính phủ Liên Xô chấp thuận thiết
lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa và trao đổi công sứ. Trong
đó có đoạn “Sau khi xem xét lời đề nghị
của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa và nhận thấy Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa đại diện cho đại đa số
nhân dân Việt Nam, Chính phủ Liên Xô
quyết định kiến lập bang giao giữa Liên
bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô –
Viết và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và
trao đổi đại sứ” [10; tr.9].
Như vậy, với thắng lợi ngoại giao
đầu năm 1950, Việt Nam đã phá vỡ được
thế bao vây cô lập của kẻ thù, mở rộng
ngoại giao với các nước trên thế giới.
Cuộc kháng chiến chống Pháp giờ đây
không phải chỉ mình nhân dân Việt Nam,
mà còn của các lực lượng tiến bộ yêu
chuộng hòa bình trên thế giới.
Ngày 03-02-1950, từ Bắc Kinh,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đi tàu hỏa đến
Mát-xcơ-va. Người đã có cuộc gặp gỡ và
hội đàm với các nhà lãnh đạo Đảng và
nhà nước Liên Xô. Sau khi nghe Chủ tịch
Hồ Chí Minh trình bày, Xtalin và các nhà
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Hương
_____________________________________________________________________________________________________________
7
lãnh đạo Liên Xô thông cảm với tình
hình khó khăn của cách mạng Việt Nam
và hoàn toàn đồng ý với đường lối chiến
lược, sách lược của Đảng cộng sản Việt
Nam trong những năm qua. Chính phủ
Liên Xô hứa sẽ tích cực viện trợ về mọi
mặt cho cuộc kháng chiến của Việt Nam,
giúp đào tạo cán bộ trên mọi lĩnh vực cho
cuộc kháng chiến và kiến quốc sau này.
Đại nguyên soái Xtalin nói: “Trước kia
do nhiều nguồn tin chưa chính xác nên
lãnh đạo Liên Xô chưa hiểu tình hình
Đông Dương và Việt Nam; nay Liên Xô
đồng tình với đường lối của Đảng Việt
Nam, sẽ cùng các nước xã hội chủ nghĩa
công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
và tích cực viện trợ cho Việt Nam trong
kháng chiến và đào tạo cán bộ cho xây
dựng hòa bình” [2; tr.121].
Để củng cố lòng tin của Chủ tịch
Hồ Chí Minh đối với Liên Xô, Xtalin còn
nhấn mạnh: “Từ nay trở đi, đồng chí có
thể tin tưởng ở sự giúp đỡ của chúng tôi,
đặc biệt vào thời điểm sau cuộc kháng
chiến, chúng tôi có nhiều hàng hóa,
chúng tôi sẽ chuyển tới cho các đồng chí
qua Trung Quốc” [12; tr.286].
Việc Liên Xô, một cường quốc vĩ
đại, có vị trí ảnh hưởng hàng đầu trên thế
giới công nhận Việt Nam có ý nghĩa cực
kì quan trọng đối với cục diện của cuộc
kháng chiến chống thực dân xâm lược
trong giai đoạn quyết định. Hành động
ngoại giao này của Liên Xô đã phá vỡ
được thế bao vây và cô lập của Việt
Nam, nối liền Việt Nam với hậu phương
lớn là các nước XHCN anh em, mở đầu
sự công nhận rộng rãi của cộng đồng
quốc tế với Việt Nam và tiếp thêm sức
mạnh tinh thần và vật chất cho nhân dân
Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược. Đồng thời,
thông qua sự kiện này, vị trí pháp lí của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã
được khẳng định một cách chính thức.
Điều đó làm thất bại ý đồ của Pháp nhằm
xây dựng vị trí quốc tế của bù nhìn Bảo
Đại và cô lập Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa trên trường quốc tế.
Sau thắng lợi ngoại giao năm 1950,
theo tinh thần đường lối đối ngoại đã
được xác định, Chủ tịch Hồ Chí Minh và
chính phủ ta tích cực hoạt động nhằm mở
rộng quan hệ, tranh thủ sự giúp đỡ của
Liên Xô và các nước dân chủ khác. Các
tổ chức như: Hội hữu nghị Việt – Xô, các
tháng hữu nghị, ngày hữu nghị với nhân
dân Liên Xô lần lượt được tổ chức nhằm
tăng cường mối quan hệ và tình hữu nghị
giữa nhân dân ta với nhân dân Liên Xô.
Theo đề nghị của chính phủ Việt
Nam, Liên Xô đã đồng ý để ta thành lập
sứ quán ở thủ đô Mát-xcơ-va. Tháng 02-
1952, Sứ quán Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa bắt đầu hoạt động. Việc thành lập sứ
quán Việt Nam ở nước ngoài góp phần
khẳng định vị thế của Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa trên trường quốc tế. Đồng thời
tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam hội
nhập với thế giới, trước hết là phối hợp
lẫn nhau trong đấu tranh chính trị, dư
luận, báo chí về mặt nhà nước cũng như
các tổ chức đoàn thể quần chúng giữa
Việt Nam và các lực lượng tiến bộ trên
thế giới.
Một trong những thành công của
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 52 năm 2013
_____________________________________________________________________________________________________________
8
ngoại giao Việt Nam trong những năm
1950 – 1954 là đã phối hợp với các cơ
quan thông tin đại chúng, cơ quan ngoại
giao của các nước bạn làm thất bại âm
mưu gây dựng địa vị quốc tế cho bù nhìn
Bảo Đại của đế quốc Mĩ và các đồng
minh của Mĩ.
Từ tháng 01-1950, báo chí Liên Xô,
đã phối hợp với cơ quan thông tin Việt
Nam vạch trần bản chất tay sai, phản
động của chính phủ bù nhìn Bảo Đại. Tại
phiên họp thường kì của Hội đồng bảo an
tháng 9-1952, đại diện Chính phủ Liên
Xô đã đưa ra kiến nghị xét đơn và kết
nạp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào
Liên hiệp quốc. Đại diện Liên Xô trình
bày lập trường của Chính phủ Liên Xô về
vấn đề trên và khẳng định ở Việt Nam
hiện nay chỉ có Chính phủ Hồ Chí Minh
là chính phủ hợp pháp.
Liên Xô không chỉ giúp đỡ nhân
dân Việt Nam ở lĩnh vực tinh thần mà
còn ủng hộ rất nhiều về vật chất.
Sau chuyến thăm Liên Xô của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, những yêu cầu của
Việt Nam đã được đáp ứng trong điều
kiện nước bạn có thể, nhiều mặt hàng
chiến lược về kinh tế, quân sự, văn hóa
đã kịp thời chuyển sang Việt Nam.
Về viện trợ quân sự, chúng ta có thể
tham khảo số liệu như sau: “Đầu năm
1950, Liên Xô viện trợ cho Việt Nam số
cao xạ 37 li đủ trang bị cho một trung
đoàn, một số xe vận tải Mô-lô-tô-va và
thuốc quân y. Đến cuối năm 1950, Việt
Nam nhận được 3983 tấn hàng viện trợ
quốc tế, trong đó có 1020 tấn súng đạn,
161 tấn quân trang, 20 tấn thuốc và dụng
cụ quân y, 71 tấn hàng quân giới, 30 xe
vận tải Mô-lô-tô-va và 2634 tấn gạo. Từ
tháng 5-1950 đến tháng 6-1954, Việt
Nam nhận được 21.517 tấn hàng viện trợ
quốc tế, trị giá 54 triệu rúp, trong đó số
pháo cao xạ 37 li (76 khẩu), toàn bộ hỏa
tiễn H6 (Cachiusa) 12 khẩu, toàn bộ tiểu
liên K50, phần lớn ô tô vận tải (685 chiếc
trên tổng số 745 chiếc) và phần lớn thuốc
Quinien là của Liên Xô” [3; tr.57-58].
Điều đặc biệt có ý nghĩa là hầu hết
mặt hàng quân sự Liên Xô viện trợ cho
Việt Nam là hàng chiến lược, có tính tiến
công cao, uy lực mạnh. Mặt khác đây là
hàng viện trợ không hoàn lại và thường
vượt mức Việt Nam đề nghị, góp phần
đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của
thực dân Pháp.
Cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp đang trên đường thắng lợi. Song, do
yêu cầu hòa dịu của tình hình thế giới,
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng kết thúc
chiến tranh bằng thương lượng. Nhân dân
Việt Nam hoan nghênh ý kiến của Liên
Xô: “vấn đề lập lại hòa bình ở Đông
Dương cũng được xem xét tại hội nghị có
sự tham dự của các đại biểu Mĩ, Anh,
Pháp, Liên Xô, Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa và các nước hữu quan, trong đó dứt
khoát có đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa” [3; tr.59].
Liên Xô, với tư cách là đồng Chủ
tịch Hội nghị Giơ-ne-vơ, đã kiên quyết
lên án hành động phá hoại Hiệp định
Giơ-ne-vơ, yêu cầu thực hiện nghiêm
chỉnh các điều khoản của Hiệp định, tiến
tới tổng tuyển cử và thống nhất đất nước.
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Hương
_____________________________________________________________________________________________________________
9
Hoạt động ngoại giao tích cực của Liên
Xô đã góp phần “đánh thức” nhân dân
yêu chuộng hòa bình trên thế giới, hình
thành mặt trận quốc tế rộng lớn đoàn kết
và ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của
nhân dân Việt Nam. Thắng lợi của Việt
Nam trên bàn Hội nghị Giơ-ne-vơ là thể
hiện kết quả trên chiến trường, và chiến
thắng này có sự đóng góp không nhỏ của
Liên Xô.
2.2. Thời kì 1955 – 1960
Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ (1954),
đất nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt
làm hai miền, từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc
được giải phóng, còn từ vĩ tuyến 17 trở
vào Nam sẽ được thống nhất bằng cuộc
tổng tuyển cử sau hai năm. Nhiệm vụ
chung của chúng ta hiện nay là: “Thi
hành đúng đắn hiệp định đình chiến, đấu
tranh để giữ gìn và củng cố hòa bình, để
thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập
và dân chủ trong toàn quốc” [4; tr.339].
Xác định ngoại giao có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong việc tạo nguồn
nhân lực, phục vụ công cuộc khôi phục
kinh tế miền Bắc và xây dựng vị thế mới
của Việt Nam trên diễn đàn quốc tế, đồng
thời làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh
đòi kẻ địch phải thi hành hiệp định Giơne-vơ, Hồ Chí Minh đã trực tiếp tham gia
nhiều hoạt động ngoại giao của Đảng,
Nhà nước và đem lại những kết quả hết
sức to lớn.
Năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh
lần đầu tiên chính thức thăm Liên Xô.
Trong chuyến đi này, Chủ tịch Hồ Chí
Minh tỏ lòng mong muốn tăng cường
quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam
với các nước. Chủ tịch đề cao quan hệ
đoàn kết giữa các nước trong phe XHCN
do Liên Xô đứng đầu.
Trên cơ sở quan hệ hữu nghị được
thiết lập từ sau chuyến đi của Hồ Chí
Minh, quan hệ Việt – Xô ngày càng tiến
triển. Tuy nhiên, ngay trong thời kì này
cũng đã xảy ra sự rạn nứt trong quan hệ
Xô – Trung, làm phát sinh những vấn đề
phức tạp, gây căng thẳng trong quan hệ
Việt – Xô. Điều này đặt ra cho ngoại giao
Việt Nam nhiệm vụ là phải góp phần giữ
gìn đoàn kết trong phe XHCN và giữ cân
bằng quan hệ giữa Việt Nam với các
nước lớn XHCN vì lợi ích của Việt Nam,
của phe XHCN và lợi ích của cách mạng
thế giới.
Đảm nhận trọng trách đó, trước khi
đi thăm các nước Đông Âu (7-1957), Hồ
Chí Minh đã có những cuộc gặp không
chính thức và hội đàm với lãnh đạo cao
nhất của hai nước nhằm xoa dịu mâu
thuẫn và thắt chặt quan hệ Xô – Trung.
Đặc biệt, trong các cuộc trao đổi, hội đàm
với lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô,
Người đã thẳng thắn tỏ rõ quan điểm của
Đảng về các vấn đề quốc tế có liên quan
đến quan hệ hai nước, cố gắng xóa đi mối
nghi ngờ và căng thẳng quan hệ đôi bên.
Sau chuyến đi này, Hồ Chí Minh
còn dành thời gian viết cuốn “Liên Xô vĩ
đại”, lấy bút danh Trần Lực, do nhà xuất
bản Sự thật Liên Xô ấn hành tháng 10-
1957. Nội dung của cuốn sách là tuyên
truyền về những thành tựu của nhân dân
Liên Xô trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội và coi đó là tấm gương cho
các nước noi theo. Thực chất, qua cuốn
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 52 năm 2013
_____________________________________________________________________________________________________________
10
sách này, Hồ Chí Minh muốn gửi đến các
nhà lãnh đạo Liên Xô bức thông điệp về
lập trường kiên định trước sau như một
của nhân dân Việt Nam trong quan hệ với
Liên Xô.
Năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh
lại sang thăm không chính thức Liên Xô
và Trung Quốc với mục đích tích cực
đóng góp cho tình đoàn kết giữa Liên Xô
với Trung Quốc và giữ vững đoàn kết
trong phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, làm chỗ dựa cho phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc, đồng thời góp
phần giữ gìn hòa bình thế giới. Qua
chuyến đi này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
gợi ý nên tổ chức các đảng cộng sản và
công nhân quốc tế thế giới. Và tháng 11-
1960, Mát-xcơ-va đã tổ chức Hội nghị
của 81 đảng cộng sản và công nhân quốc
tế thế giới. Đoàn Đại biểu Đảng Lao
động Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh
dẫn đầu đã đến tham dự Hội nghị. Tại
cuộc họp, mâu thuẫn giữa hai đoàn đại
biểu Đảng Cộng sản Liên Xô và Trung
Quốc bộc lộ gay gắt. Hội nghị hầu như
tan vỡ, không kí được tuyên bố chung.
Với sự nỗ lực thuyết phục của các đảng
cộng sản, trong đó có Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Trưởng đoàn đại biểu Đảng Cộng
sản Liên Xô và Trưởng đoàn đại biểu
Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đồng ý
thỏa thuận và kí Tuyên bố chung của Hội
nghị 81 đảng.
Những nỗ lực và sự chân thành của
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Đảng,
Nhà nước Liên Xô ghi nhận và đánh giá
cao. Trong những năm 1955 – 1960, Liên
Xô đã kí với Việt Nam nhiều hiệp ước
kinh tế, văn hóa, khoa học kĩ thuật, quân
sự và thương mại. Cụ thể là Liên Xô kí
Hiệp định viện trợ không hoàn lại (kí
ngày 18-7-1955), trong đó Liên Xô đồng
ý viện trợ cho Việt Nam 400 triệu rúp để
thực hiện kế hoạch 3 năm khôi phục và
phát triển kinh tế, đồng thời xây dựng 25
nhà máy. Điều đáng quý là Liên Xô đã
gửi sang Việt Nam nhiều chuyên gia trên
mọi lĩnh vực và nhận nhiều lưu học sinh
Việt Nam sang đào tạo. Theo Hiệp ước
thương mại và hàng hải (ngày 12-3-
1958), Hiệp định về hợp tác khoa học kĩ
thuật (ngày 07-3-1959), Liên Xô cho Việt
Nam vay dài hạn 100 triệu rúp với điều
kiện ưu đãi, xây dựng nhiều nhà máy
quan trọng cho Việt Nam, như: cơ khí Hà
Nội, điện Uông Bí…
Sự thành công về mặt ngoại giao
đạt được từ nỗ lực của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong quan hệ với Liên Xô. Việt
Nam đã tạo được vị thế của mình trong
quan hệ quốc tế, qua đó tăng cường sức
mạnh về mọi mặt, tranh thủ tối đa sự ủng
hộ của Liên Xô trong cuộc kháng chiến
kiến quốc của dân tộc.
2.3. Thời kì 1961 – 1964
Trong những năm 1961 – 1964,
Việt Nam phải đối phó với “chiến tranh
đặc biệt” của Mĩ. Đế quốc Mĩ không
ngừng tăng viện trợ về kinh tế, cố vấn
quân sự, vũ khí hiện đại cho chính quyền
tay sai Ngô Đình Diệm, dùng chiến
trường Việt Nam để thí nghiệm các loại
vũ khí hiện đại nhất của Mĩ. Hành động
đó làm cho mức độ của cuộc chiến tranh
trở nên khốc liệt. Là một nước nhỏ bé,
nông nghiệp lạc hậu, lại phải đối phó với
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Hương
_____________________________________________________________________________________________________________
11
một đế quốc hùng mạnh, đòi hỏi Việt
Nam, bên cạnh sự đồng lòng của toàn
dân, cần phải có sự ủng hộ của các nước
XHCN, các lực lượng tiến bộ trên thế
giới; trong đó, sự ủng hộ của Liên Xô có
ý nghĩa rất quan trọng, đó là nhân tố tác
động đến tương lai cuộc chiến tranh Việt
Nam.
Một trong những nội dung cơ bản
trong đường lối đối ngoại của Đảng sau
ngày hòa bình lập lại là tăng cường đoàn
kết quốc tế trên cơ sở quan hệ chặt chẽ
với Liên Xô và các nước XHCN. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Mọi thắng lợi
của Đảng ta và nhân dân ta không thể
tách rời sự ủng hộ nhiệt tình của Liên
Xô…” [5; tr.18].
Việc tăng cường và củng cố tình
đoàn kết hữu nghị, tranh thủ sự giúp đỡ
và hợp tác chặt chẽ với Liên Xô tiếp tục
được xác định là vấn đề trọng tâm then
chốt trong chính sách ngoại giao của
Đảng và Nhà nước ta.
Với bề dày kinh nghiệm và uy tín
của một chiến sĩ cộng sản, Hồ Chí Minh
đã làm hết sức mình để bảo vệ phe
XHCN, hàn gắn rạn nứt Xô – Trung. Đây
không chỉ là trách nhiệm đối với phong
trào cộng sản quốc tế mà còn mang ý
nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta: “Sự đoàn kết của
phe XHCN chính là chỗ dựa vững chắc,
là hậu phương rộng lớn, là nhân tố kiềm
chế sự liều lĩnh của đế quốc Mĩ” [9;
tr.89].
Kiên trì thái độ mềm mỏng, chân
thành và hữu nghị trong quan hệ với Liên
Xô, ngày 14-8-1964, thay mặt Trung
ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh trực
tiếp gửi thư cho N. Khơrutsốp và Đảng
Cộng sản Liên Xô, khẳng định sự gắn bó
thủy chung của nhân dân Việt Nam đối
với sự nghiệp cách mạng của nhân dân
Liên Xô. Bức thư có đoạn: “Đảng Lao
động Việt Nam luôn luôn quý trọng, yêu
mến và biết ơn Đảng Cộng sản Liên Xô
do Lê-nin sáng lập và nhân dân Liên Xô
vĩ đại, sẽ không ngừng phấn đấu để xây
dựng Đảng cộng sản Liên Xô, bảo vệ
Liên Xô trước đây cũng như sau này, tình
hữu nghị và lòng biết ơn của chúng tôi
với Đảng Cộng sản và nhân dân Liên Xô
sẽ không thay đổi” [1; tr.55].
Nhờ những hành động đầy thiện chí
và mang tính xây dựng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, quan hệ Xô – Việt dần dần
được củng cố. Cho đến khi có sự thay đổi
trong lãnh đạo Đảng Liên Xô, quan hệ
giữa hai Đảng và hai Nhà nước đã tiến
lên một cấp độ mới.
Bằng hoạt động ngoại giao tài tình,
khéo léo, mềm dẻo, linh hoạt của Chủ
tịch Hồ Chí Minh với Liên Xô, chúng ta
đã giành được nhiều kết quả đáng khích
lệ. Khi máy bay Mĩ xâm phạm không
phận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
Thông tấn xã Liên Xô (TACC) đã ra
tuyên bố: “Liên Xô kiên quyết lên án
những hành động xâm lược bằng máy
bay của Mĩ trên lãnh thổ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa và đòi chấm dứt mọi
hoạt động khiêu khích tương tự chống lại
nước này… Liên Xô sẽ không thể làm
ngơ trước vận mệnh của một nước
XHCN anh em và Liên Xô sẵn sàng giúp
đỡ nước anh em đó mọi sự cần thiết” [10;
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 52 năm 2013
_____________________________________________________________________________________________________________
12
tr.65].
Cũng trong thời gian từ 1961 đến
1964, theo các hiệp định kinh tế và
thương mại được kí kết giữa Chính phủ
ta và Chính phủ Liên Xô, cùng với viện
trợ về kinh tế, Liên Xô đã viện trợ không
hoàn lại cho Việt Nam hàng chục nghìn
tấn vũ khí, đạn dược, khí tài, phương tiện
chiến tranh hiện đại như xe tăng, máy
bay, tên lửa, ra đa… Các trường quân sự
của Liên Xô cũng nhận huấn luyện và
đào tạo nhiều đơn vị, sĩ quan chỉ huy, sĩ
quan kĩ thuật cho quân đội nhân dân Việt
Nam.
Có thể nói rằng, nhờ có sự hỗ trợ
đắc lực từ nguồn viện trợ to lớn và toàn
diện của Liên Xô, Kế hoạch phát triển
kinh tế 5 năm lần thứ nhất của Việt Nam
đã căn bản hoàn thành. Trên cơ sở đó,
miền Bắc đã chuẩn bị cả vật chất và tinh
thần để trở thành hậu phương cách mạng
của cả nước, sẵn sàng đối phó với hành
động leo thang chiến tranh và đánh bại
chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế
quốc Mĩ. Một lần nữa, ngoại giao lại thể
hiện vai trò đắc lực, góp phần quan trọng
thúc đẩy sự phát triển của cách mạng
Việt Nam.
Quan sát diễn biến quan hệ Việt
Nam – Liên Xô những năm đầu thập kỉ
60, chúng ta thấy rằng dù tình hình thế
giới có nhiều diễn biến phức tạp, mâu
thuẫn Xô – Trung ngày càng gay gắt,
nhưng Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
kịp thời chỉ đạo, xử lí các vấn đề quốc tế
một cách sáng tạo và hợp lí. Thành công
trong việc giải quyết mối quan hệ Việt –
Trung – Xô chính là tiền đề để tạo nên
động lực vật chất, tinh thần vô cùng to
lớn, thúc đẩy sự phát triển của cách mạng
Việt Nam.
2.4. Thời kì 1965 – 1969
Vào những năm 1965 – 1969, tình
hình trong nước và trên thế giới có nhiều
biến động phức tạp. Sau khi chiến lược
“Chiến tranh đặc biệt” thất bại, Mĩ
chuyển sang một hình thức chiến tranh
mới đó là “Chiến tranh cục bộ”. Bên cạnh
cung cấp đô la vũ khí cho ngụy quyền, đế
quốc Mĩ ồ ạt đưa quân viễn chinh Mĩ và
quân các nước chư hầu vào Việt Nam với
quyết tâm phải giành thắng lợi trong
chiến lược chiến tranh này. Hành động
đó đã làm cho cuộc chiến tranh trở nên
khốc liệt, làm cho tình hình ở Việt Nam
thêm căng thẳng. Và hơn lúc nào hết,
chúng ta rất cần sự ủng hộ của các nước
XHCN.
Trong bối cảnh Đế quốc Mĩ ngày
càng leo thang xâm lược nước ta, nhằm
tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao và
cụ thể hóa những phương hướng đã đưa
ra (trong Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương lần thứ 11 (khóa III) tổ chức ngày
25-3-1965), từ ngày 21 đến ngày 27-12-
1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa III) đã tiến hành họp Hội nghị lần
thứ 12 do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì.
Hội nghị đã đi tới quyết nghị: “Công tác
của ta lúc này chủ yếu là nhằm tranh thủ
sự ủng hộ và giúp đỡ mạnh mẽ hơn nữa
của phe XHCN và của nhân dân thế giới
đối với sự nghiệp chống Mĩ cứu nước của
nhân dân cả nước ta” [7; tr.24]. Một
trong những nhiệm vụ trọng tâm trong
quan hệ ngoại giao lúc này là, chúng ta
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Hương
_____________________________________________________________________________________________________________
13
phải tìm mọi cách thắt chặt mối quan hệ
Việt – Xô để tranh thủ viện trợ của các
nước cho cuộc kháng chiến chống Mĩ
đang diễn ra ở nước ta.
Trước mâu thuẫn ngày càng tăng
giữa Liên Xô và Trung Quốc, Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm hết sức
mình để góp phần khôi phục sự đoàn kết
trong phe xã hội chủ nghĩa. Người căn
dặn các đại sứ nước ta ở nước ngoài:
“Khi nói chuyện với các nhà ngoại giao
Liên Xô, tuyệt đối không được phát biểu
gì ảnh hưởng tới Trung Quốc. Khi nói
chuyện với các nhà ngoại giao Trung
Quốc, cũng tuyệt đối không được phát
biểu gì ảnh hưởng đến Liên Xô mà chỉ
được nói những điều góp phần tăng
cường đoàn kết Xô – Trung” [2; tr.211].
Đồng thời, Bác cũng cố gắng làm hết
mình để ngăn ngừa và hạn chế không để
tình trạng bất đồng Xô – Trung ngày càng
xấu thêm. Người đưa ra nguyên tắc như
sau: “Làm việc phải thật khôn khéo, thận
trọng để Trung Quốc và Liên Xô đừng
hiểu lầm nhau” [9; tr.158].
Trong quan hệ với Liên Xô, Chủ
tịch Hồ Chí Minh hoan nghênh những
chủ trương tích cực của ban lãnh đạo
Liên Xô trong việc ủng hộ và viện trợ
cho Việt Nam chống Mĩ. Người đánh giá
cao nguồn viện trợ to lớn mà Liên Xô
dành cho Việt Nam, đánh giá cao sự
đóng góp của Liên Xô đối với phong trào
cách mạng thế giới cũng như công cuộc
đấu tranh bảo vệ hòa bình thế giới. Người
nói: “Đi theo con đường do Lê-nin vĩ đại
đã vạch ra, con đường của Cách mạng
tháng Mười, nhân dân Việt Nam đã giành
được thắng lợi rất to lớn. Chính vì vậy
mà mối tình gắn bó và lòng biết ơn của
nhân dân Việt Nam đối với Cách mạng
tháng Mười vẻ vang, đối với Lê-nin vĩ
đại và đối với nhân dân Liên Xô là vô
cùng sâu sắc” [6; tr.309].
Với thái độ đúng đắn và thiện chí,
cùng nỗ lực không biết mệt mỏi của
người chiến sĩ cộng sản quốc tế Hồ Chí
Minh, Liên Xô đã tuyên bố: “Từ nay,
Liên Xô hoàn toàn ủng hộ cuộc đấu tranh
chống Mĩ, cứu nước của Việt Nam” [2;
tr.201].
Từ chỗ Liên Xô không công nhận
Mặt trận giải phóng Miền Nam và Chính
phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam, ngày 13-6-1969, Liên Xô đã ra
tuyên bố chính thức công nhận Chính
phủ lâm thời “là đại diện hành pháp duy
nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam”.
Cùng với sự ủng hộ về chính trị, Liên Xô
còn dành cho Việt Nam những khoản
viện trợ rất lớn về quân sự, góp phần
đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ”
của Mĩ ở miền Nam Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đau lòng
trước sự bất hòa của các Đảng và các
nước anh em khi mà cuộc kháng chiến
chống Mĩ, cứu nước của nhân dân ta
đang bước vào giai đoạn quyết liệt. Vì
vậy, khi bắt đầu viết bản Di chúc lịch sử
vào giữa tháng 5-1965, Người đã viết:
“Là một người suốt đời phục vụ cách
mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh
của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng
bấy nhiêu vì sự bất hoà hiện nay của các
Đảng anh em” [11; tr.423]. Điều này cho
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 52 năm 2013
_____________________________________________________________________________________________________________
14
thấy, ngay từ lúc còn sống, Người vẫn
luôn trăn trở về sự bất hòa Xô – Trung.
Dù không ngăn cản được cuộc chiến đó,
nhưng những gì mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh làm đã thể hiện tinh thần trách
nhiệm cao đẹp của người chiến sĩ cộng
sản quốc tế, khiến nhân dân hai nước
luôn kính phục và ghi nhớ. Mặt khác,
những điều trong Di chúc còn xuất phát
từ hoàn cảnh khi cuộc kháng chiến chống
Mĩ của dân tộc ta chưa kết thúc, chúng ta
vẫn cần sự ủng hộ của các nước anh em,
mà đặc biệt là Liên Xô. Vì thế, Người đã
huấn thị cho Bộ Chính trị phải duy trì
mối quan hệ tay ba làm sao cho tốt, tranh
thủ sự ủng hộ mọi mặt của các lực lượng
tiến bộ trên thế gới, để từ đó, đưa cuộc
kháng chiến nhanh chóng thắng lợi. Đó
chính là mong mỏi của Bác – một người
suốt đời vì nước vì dân, suốt đời đấu
tranh cho hòa bình và sự tiến bộ của nhân
loại.
3. Kết luận
Tình hình thế giới trong thập niên
50, 60 của thế kỉ XX có nhiều biến đổi
phức tạp, đòi hỏi phải có sự khôn khéo
tinh tế để giải quyết các vấn đề đặt ra.
Bằng nhãn quan chính trị nhạy bén, tư
duy phân tích thời thế khoa học, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã thể hiện vai trò của mình
trong hoạt động đối ngoại với các nước
trên thế giới nói chung và Liên Xô nói
riêng. Bằng nỗ lực bản thân, Người đã
thiết lập được quan hệ ngoại giao với
Liên Xô đầu năm 1950, chấm dứt thời kì
“chiến đấu trong vòng vây” của nước ta.
Sau khi được Liên Xô đặt quan hệ
ngoại giao, Hồ Chí Minh đã từng bước
vun đắp cho tình đoàn kết Việt – Xô.
Trong suốt thời gian từ 1950 – 1969, mặc
dù quan hệ giữa hai nước Việt Nam –
Liên Xô có những bước thăng trầm,
nhưng với đường lối ngoại giao khéo léo,
mềm dẻo, đề cao tinh thần yêu chuộng
hòa bình thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã từng bước tháo gỡ những khúc mắc,
hiểu nhầm, tạo điều kiện để Liên Xô có
thể hiểu hơn về tình hình cách mạng Việt
Nam, về đường lối chủ trương của Đảng
ta trong những năm qua; chính vì thế,
quan hệ Việt – Xô ngày càng được vun
đắp và bền vững.
Với phương châm ngoại giao linh
hoạt, biết tạo và nắm bắt thời cơ, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đưa cách mạng Việt
Nam gắn với cách mạng thế giới. Việt
Nam đã nhận được sự ủng hộ về chính trị
và nhiều nguồn viện trợ từ Liên Xô trong
tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa
học kĩ thuật. Đặc biệt, với sự hỗ trợ của
Liên Xô về các loại vũ khí hạng nặng,
Việt Nam đã đánh đuổi được thực dân
Pháp xâm lược, đánh bại các chiến lược
chiến tranh của đế quốc Mĩ.
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Hương
_____________________________________________________________________________________________________________
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Ngoại giao, Phòng Lưu trữ, “Đấu tranh ngoại giao và vận động trong kháng
chiến chống Mĩ cứu nước”, kí hiệu TK/HC 90.
2. Nguyễn Đình Bin (chủ biên) (2005), Ngoại giao Việt Nam (1945 – 2000), Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Trịnh Vương Hồng (2000), “Sự giúp đỡ nhiệt tình, to lớn, hiệu quả của Liên Xô với
hai cuộc kháng chiến của nhân Việt Nam (1945 – 1975)”, Tài liệu Hội thảo kỷ niệm
50 năm quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, 2009, Hà Nội.
5. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, 2009, Hà Nội.
6. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, 2009, Hà Nội.
7. Một số văn kiện của Đảng về chống Mĩ cứu nước, tập 2, Nxb Sự thật, 1986, Hà Nội.
8. Đặng Văn Thái (2004), Hoạt động đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong kháng
chiến chống thực dân Pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Trần Minh Trưởng (2005), Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm
1954 đến 1969, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
10. Việt Nam – Liên Xô 30 năm quan hệ (1950 – 1980), Nxb Ngoại giao Hà Nội, Nxb
Tiến bộ, Matxcơva, 1980.
11. Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh (1995), Hồ Chí
Minh – Biên niên tiểu sử, tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
12. William J.Duiker (2000), HoChiMinh, Nxb Hyperion, New Yook, Bản dịch lưu tại
Viện Hồ Chí Minh.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 27-6-2013; ngày phản biện đánh giá: 11-7-2013;
ngày chấp nhận đăng: 23-11-2013)
