BÁO PHỤ NỮ TÂN VĂN VÀ SỰ KHỞI XƯỚNG PHONG TRÀO THƠ MỚI ĐẦU THẾ KỶ XX

MAI THỊ MỸ VỊ
TÓM TẮT
Thứ Năm ngày 10/3/1932, với bài viết “Một
lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” cùng
với bài thơ “Tình già” của Phan Khôi, báo
Phụ nữ Tân văn đã trình làng một lối thơ
phá luật, khởi xướng cho phong trào Thơ
Mới và được nhiều người gọi là “cuộc cách
mạng về thi ca”. Tờ báo đã dấy lên cuộc
tranh luận sôi nổi giữa hai trường phái: thơ
Mới và thơ Cũ. Tuy nhiên, cuối cùng Thơ
Mới đã khẳng định thắng lợi với sự xuất
hiện của một loạt nhà thơ nổi tiếng tiêu
biểu cho dòng thơ này. Bài viết nhìn lại lịch
sử những đóng góp của báo Phụ nữ Tân
văn trong việc khởi xướng phong trào Thơ
Mới, góp phần đổi mới nền văn học Việt
Nam ở những thập niên đầu thế kỷ XX.
1. GIỚI THIỆU VỀ BÁO PHỤ NỮ TÂN VĂN
Trước năm 1930, ở Việt Nam có rất ít báo
Quốc ngữ dành riêng cho giới phụ nữ, mặc
dù lúc này tư tưởng canh tân đang dấy lên
và vấn đề phụ nữ đã được bàn luận đến
nhiều trong xã hội. Đến năm 1918, lần đầu
tiên tại Nam Bộ và Việt Nam mới xuất hiện
tờ báo dành riêng cho phụ nữ, đó là tờ Nữ
giới chung do bà Sương Nguyệt Anh làm
chủ bút. Tuy nhiên tờ báo chỉ tồn tại được
5 tháng thì phải đình bản. Kể từ đó cho
đến đầu năm 1929, khi báo Phụ nữ Tân
văn ra đời tại Sài Gòn, thì Việt Nam mới lại
có một tờ báo riêng dành cho phụ nữ, mở
đầu cho một giai đoạn phát triển của dòng
báo phụ nữ trong làng báo giới Việt Nam
giai đoạn từ 1930 đến 1945.
Báo Phụ nữ Tân văn do bà Nguyễn Đức
Nhuận làm chủ nhiệm, ra mắt tại Sài Gòn
vào ngày 2/5/1929. Tờ báo này không chỉ
bàn luận về các vấn đề của phụ nữ, mà
nhìn rộng hơn, đã đề cập đến nhiều vấn đề
thời sự chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
của đất nước… Trong gần 6 năm tồn tại
(1929-1935), Phụ nữ Tân văn đã đề xuất
nhiều phong trào vận động nữ quyền và
giải phóng phụ nữ, khởi xướng phong trào
Thơ Mới, tổ chức nhiều hoạt động nhằm
khuyếch trương các phong trào xã hội,
giúp đỡ cho phụ nữ, học sinh và những
người nghèo trong xã hội…
Báo quy tụ nhiều cây bút nổi tiếng từ ba
miền Bắc-Trung-Nam như Đào Trinh Nhất,
Phan Khôi, Diệp Văn Kỳ, Bùi Thế Mỹ, Cao
Văn Chánh, Hồ Biểu Chánh, Bửu Đình,
Thiếu Sơn, Vân Đài… nên văn chương
vững chắc, phóng khoáng và đa dạng.
2. BÁO PHỤ NỮ TÂN VĂN VÀ SỰ KHỞI
XƯỚNG PHONG TRÀO THƠ MỚI
Suốt quá trình hoạt động của mình, Phụ
nữ Tân văn đã dốc nhiều công sức vào
các hoạt động xã hội hơn là trên lĩnh vực
văn học: “Phụ nữ Tân văn vẫn để ý đến
văn học xứ này song lại càng lưu tâm về
sự hành động”(1). Tuy vậy Phụ nữ Tân văn
Mai Thị Mỹ Vị. Nghiên cứu viên. Trung tâm Sử
học Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ.
50 MAI THỊ MỸ VỊ – BÁO PHỤ NỮ TÂN VĂN VÀ…
đã thực sự để lại dấu ấn quan trọng, góp
phần định hướng văn chương Việt Nam
trong nửa đầu thế kỷ XX.
Trong 6 năm phát hành, báo từng đăng rất
nhiều thiên tiểu thuyết nổi tiếng vào thời
bấy giờ như: Cậu Tám Lọ, Con nhà nghèo,
Vì nghĩa vì tình, Cha con nghĩa nặng, Bộ
đồ vải trắng… Đặc biệt là Mảnh trăng thu,
tiểu thuyết hấp dẫn được gửi từ Côn Đảo
về của tác giả B.Đ (một người cộng tác với
báo Phụ nữ Tân văn, sau mới rõ là Bửu
Đình – TG). Nhưng có lẽ sự kiện nổi bật
nhất của Phụ nữ Tân văn, làm sôi nổi làng
báo, làng thơ khắp ba miền Bắc, Trung,
Nam lúc bấy giờ, là việc cho ra đời một lối
thơ mới, khởi đầu cho phong trào Thơ Mới
và được nhiều người nhắc đến như “cuộc
cách mạng về thi ca”.
Có hai con người mà tên tuổi gắn với việc
làm dấy lên phong trào Thơ Mới trên Phụ
nữ Tân văn, đó là ông Phan Khôi và cô
Nguyễn Thị Kiêm (bút danh Nguyễn Thị
Manh Manh).
Năm 1932, Phan Khôi vì muốn thoát khỏi
ràng buộc của lối thơ cũ (thơ luật) nên đã
đưa ra lời hô hào “Duy tân đi! Cải lương
đi!” và ông đã đem “Một lối thơ mới trình
chánh giữa làng thơ” với bài Tình già:
Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió
lại vừa mưa,
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ,
hai cái đầu xanh, kề nhau than thở:
“Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng,
mà lấy nhau hẳn đà không đặng;
Để đến nỗi tình trước phụ sau, chi cho
bằng sớm liệu mà buông nhau!”
– “Hay! Nói mới bạc làm sao chớ! Buông
nhau làm sao cho nỡ?
Thương được chừng nào hay chừng nấy,
chẳng qua ông Trời bắt đôi ta phải vậy!
Ta là nhân ngãi, đâu phải vợ chồng mà
tính chuyện thủy chung?”
Hai mươi bốn năm sau, tình cờ đất khách
gặp nhau
Đôi cái đầu đều bạc, nếu chẳng quen lung,
đố có nhìn ra được!
Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi!
con mắt còn có đuôi(2).
Khi những dòng thơ Tình già đến với bạn
đọc, nhiều nhà thơ có khuynh hướng đổi
mới tích cực hưởng ứng, bên cạnh cũng
có không ít nhà thơ theo trường phái cũ,
như Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1888-
1939), công kích dữ dội.
Bài thơ Tình già khi ra đời ít được mọi
người thích. Nhiều người cho rằng bài thơ
dài dòng và không có nguyên tắc. Về hình
thức, bài thơ không được gọn, nhưng về
nội dung, ý tứ thì rõ ràng, dễ hiểu và thật
thà. Chính Phan Khôi cũng nói đó là một
lối thơ thử nghiệm (un essai), mục đích là
đem những tâm tình trong lòng mình mà
bày tỏ chứ chẳng theo một niêm luật nào
cả.
Để hưởng ứng cho phong trào Thơ Mới
mà Phan Khôi đề xướng, trên số báo Xuân
1933 của Phụ nữ Tân văn đăng bài thơ
Viếng phòng vắng của nữ sĩ Nguyễn Thị
Manh Manh (tức Nguyễn Thị Kiêm). Lời
thơ phóng túng, ý tưởng mạnh bạo, nhưng
không kém phần tao nhã:
“Gió lọt phòng không
Tại hơi dông
Lạnh như đồng
Ngồi mơ tưởng
Ngày xưa phất phưởng
MAI THỊ MỸ VỊ – BÁO PHỤ NỮ TÂN VĂN VÀ… 51
Dấy động tơ lòng…
Trải qua mấy trăng
Hỡi nhện giăng
Với rêu lan
Tấm vách cũ
Từ khi người chủ
Một giấc lặng trang?
Tan nát vóc xưa
Dưới mồ mưa
Sương phủ dập!…
Đến hồn nàng
Thôi cũng bặt đàng
Biết sao được gặp!…
Gió lọt phòng không
Tạt hơi dông
Lạnh như đồng
Ngồi tơ tưởng
Tình xưa phất phưởng
Ấm dịu cả lòng…”(3).
Tiếp sau đó, Phụ nữ Tân văn đăng nhiều
bài thơ mới của nữ sĩ Manh Manh như: Lá
rụng, Hai cô thiếu nữ, Canh tàn… Nhiều
bài thơ của Hồ Văn Hảo, Con nhà thất
nghiệp, Tình thâm, Hương nồng… gây nhiều
tiếng vang lớn trong làng thơ Việt Nam lúc
bấy giờ. Thử đọc lại bài Lá rụng của nữ sĩ
Manh Manh (Nguyễn Thị Kiêm):
Rừng xanh buổi rũ, lá vàng
đành vội vã rụng…
Biết bao những đụn lá vàng
trên đất cỏ ủ!…
Hắt hiu gió rừng dấy lên,
muôn ngàn lá rụng,…
Biết bao những đụn tốc lên
xơ xẩy nửa lừng!…
Gió thoát đi xa, nhẹ nhàng
đáp xuống lá rụng…
Biết bao mảnh vụn theo đàng
gió cuốn đi xa…
Ối!… rừng cây cỏ rủ, Ôi! các
lá vàng tơi tả rụng!…
Biết bao mảnh tình vụn đã thoát
theo gió thời gian cũ!… (4)
Không chỉ viết những bài thơ đăng trên
báo, cô Nguyễn Thị Kiêm còn đăng đàn
diễn thuyết về đề tài Thơ Mới tại trụ sở Hội
Khuyến học Nam Kỳ ở Sài Gòn
(26/7/1933). Bác sĩ Trần Văn Đôn, Hội
trưởng đã giới thiệu rằng: “Hội Khuyến học
đã có hai mươi lăm năm nay; lần này là lần
thứ nhứt, một người phụ nữ đăng đàn!”(5).
Bài diễn thuyết của cô Nguyễn Thị Kiêm
kéo dài một tiếng rưỡi đồng hồ, không biên
soạn trước. Cô đã mạnh dạn bác lại những
lời “nghị luận vô giá trị” của ông Tân Việt,
cô Tịnh Đế… vì những người này có ý kiến
cho rằng những bài thơ cô đăng trên báo
Phụ nữ Tân văn là không niêm luật, “Cô
định nghĩa chữ thơ. Cô giãi rỏ ràng vì sao
mà phải bỏ khuôn khổ củ. Không những là
phạm vi 8 câu 5, 6 chữ không thể giúp cho
thi sĩ diển tả cái thiệt tế ngày nay, bày rỏ
vấn đề sự sống, cho đến những lối củ mà
hơi rộng hơn là lối lục bát và song thất lục
bát cũng không thể làm khuôn cho tình tứ
mới được…”(6).
Đến số 211, ra ngày 10/8/1933, Phụ nữ
Tân văn tiếp tục tường thuật về bài diễn
thuyết của nữ sĩ Nguyễn Thị Kiêm về thơ
mới trên diễn đàn Hội khuyến học Sài Gòn.
Trong bài này cô đưa ra những hạn chế
khi phải áp dụng cách làm thơ theo khuôn
khổ của thơ Đường luật và nhấn mạnh về
sự cần thiết phải được đổi mới cách làm
thơ: “Thơ Đường luật là một lối thơ rất bó
buộc về từng câu từng chữ, chặc chịa về
luật hình trắc, về phép đố, câu đối chữ. Vì
khuôn khỗ luật phép phiền phức nên người
52 MAI THỊ MỸ VỊ – BÁO PHỤ NỮ TÂN VĂN VÀ…
làm thơ Đường luật phải ở trong một phạm
vi eo hẹp lúng túng, hễ cảm hứng ra bài
nào thì câu văn như nhái lại, mấy trăm bài
khác; còn ý tưởng thì dường như đả có
nhiều người “phát minh” ra trước rồi. Bằng
muốn bỏ hết mấy sáo củ, diển những tư
tưởng mới mẻ thì không trúng khuôn
khổ… Hai lối sau, lục bát và song thất lục
bát thì giản dị hơn: cách đặt câu định vần
cũng không cần phải đối, phải hạn câu.
Tuy vậy, về nội dung của nó, ý tưởng ít bị
khép hơn thơ Đường luật, song cái hình
thức cũng còn ép ta phải lập những sáo củ.
Muốn cho tình tứ không vì khuôn khổ mà
bị “đẹt” mất thì rất cần phải có một lối thơ
khác, do lề lối nguyên tắc rộng rải hơn.
Thơ nầy khác hơn lối xưa gọi là thơ
mới…”(7).
Việc đăng đàn diễn thuyết về Thơ Mới đối
với một phụ nữ vào thời kỳ này là một sự
kiện hiếm thấy. Khán giả có mặt hôm ấy,
có người còn gọi cuộc diễn thuyết này là
“một cuộc cách mạng trong làng thơ”. Còn
Hoài Thanh-Hoài Chân trong Thi nhân Việt
Nam đã có nhận xét: “Thơ mới đã bắt đầu
có cơ sở. Trong làng thơ mới người ta
càng sốt sắng thêm. Từ hai tháng trước,
hôm 26-7-1933 một nữ sĩ có tài và có gan,
cô Nguyễn Thị Kiêm, đã lên diễn đàn Hội
khuyến học Sài Gòn hết sức tán dương
thơ mới. Hội Khuyến học Sài Gòn thành
lập đến bây giờ đã 25 năm. Lần thứ nhất
một bạn gái lên diễn đàn và cũng lần thứ
nhất có một cuộc diễn thuyết được đông
người nghe như thế”
(8).
Sau cô Nguyễn Thị Kiêm, không có thêm
một nữ diễn giả nào khác đăng đàn diễn
thuyết về Thơ Mới mà chỉ có vài nam diễn
giả nhập cuộc. Ngày 16/1/1935, cô Nguyễn
Thị Kiêm còn đăng đàn diễn thuyết thêm
một lần nữa. Với những hoạt động tích cực
của mình trong việc cổ động cho phong
trào Thơ Mới nên nhà thơ Lưu Trọng Lư
đưa ra nhận xét rằng cô Nguyễn Thị Kiêm
là đại diện tiêu biểu cho khuynh hướng
Thơ Mới ở Nam Kỳ thời bấy giờ: “Đại biểu
cho cái khuynh hướng ấy (thơ mới) đáng
kể nhất thì ngoài Bắc có ông Thế Lữ, mà
trong Nam có cô Nguyễn Thị Kiêm…”(9).
Phong trào Thơ Mới do Phụ nữ Tân văn
phát động đã gây nên cuộc bút chiến sôi
động và kéo dài trên các diễn đàn báo chí
từ Nam chí Bắc trong nhiều năm liền mà
trước đó chưa từng diễn ra (chỉ đến giai
đoạn sau mới có cuộc bút chiến về vấn đề
“nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị
nhân sinh” giữa Hải Triều với Phan Khôi,
Hoài Thanh, Thiếu Sơn… cũng dữ dội và
kéo dài trên làng báo Việt Nam trong nửa
đầu thế kỷ XX).
Phụ nữ Tân văn cổ động cho phong trào
Thơ Mới nhưng cũng thể hiện tính khách
quan khi đăng tải những ý kiến phản đối
Thơ Mới của các thi sĩ theo trường phái cũ.
Cụ thể, trên số Xuân 1934, Phụ nữ Tân
văn có đăng bài Hài đàm của Tản Đà với
tựa đề Thơ Mới:
“Từ khi Lý Bạch chết, thiên hạ không
chuộng thơ, mà thơ kém hay. Bởi thế mới
Phan Khôi tiên sinh ra đời.
Từ khi Bá Nha chết, thiên hạ không
chuộng đờn, mà đờn kém hay. Bởi thế mới
có Quách tiên sinh ra đời.
Phan tiên sinh cãi lương về thơ, ở đời
chưa ai gặp tri kỹ.
Quách tiên sinh cãi lương về đờn, ở đời
chưa ai gặp tri âm.
Một hôm, kỳ ngộ duyên may, hai tiên sinh
gặp gở.
MAI THỊ MỸ VỊ – BÁO PHỤ NỮ TÂN VĂN VÀ… 53
Trong một nhà ở phố Khâm Thiên, Phan
đương nằm hút ở trên gác, bổng nghe ở
dưới gác có tiếng đờn nẩy, nhận lâu thấy
rất khác thường: tiếng đờn thực hay mà
như không có cung bực. Do bụng hoài
nghi, Phan tiên sinh bước xuống bực
thang ngó thữ coi, thấy người nẩy đờn đó
chừng cũng là một du tữ, mà coi ra có vẽ
cao nhân; nhân bước luôn xuống thang
làm quen nói chuyện chơi. Người đó là ai?
Tức là Quách tiên sinh vậy. Rồi đó, Quách
tiên sinh nói truyện đờn; Phan tiên sinh nói
truyện thơ.
Rồi Quách đờn một chập, Phan thơ một hồi
Rồi Quách lại đờn, Phan lại thơ
Rồi Phan, Quách lại truyện thơ, truyện đờn.
Cái thú gặp tri kỷ, khó bút mực nào vẻ cho
hết. Chị chủ đó nguyên là một tay tài tình,
văn thơ âm nhạc đều có hiểu qua, nhân
bàng quang một cuộc cầm thi, cũng cãm
tác một bài “Thơ mới”:
Đờn là đờn,
Thơ là thơ;
Thơ thời có chữ, đàn có tơ
Nếu không phá cách vứt điệu luật,
Khó cho thiên hạ đến bao giờ!
Bá Nha xa,
Lý Bạch khuất,
Thơ có họ Phan, đờn có họ Quách.
Thơ có chử,
Đờn có tơ;
Đờn thời ngơ ngẫn, thơ vẫn vơ,
Tài tử văn nhân nhường rứa rứa
Bút huê ngao ngán bận đề thơ”
(10).
Trước những lời công kích, châm biếm
của các thi sĩ thuộc trường phái cũ, những
nhà thơ hưởng ứng phong trào Thơ Mới
không chùn bước mà vẫn tiếp tục trình
làng những vần thơ tiêu biểu cho Thơ Mới,
như bài Con nhà thất nghiệp của Hồ Văn
Hảo, đăng trên báo Phụ nữ Tân văn số 208,
ngày 20/7/1933. Sau một thời gian cổ vũ
nhiệt thành thơ mới, cô Nguyễn Thị Kiêm
chuyển qua hoạt động trong lĩnh vực phụ
nữ, thơ văn vì đó mà im hơi lặng tiếng. Tuy
nhiên những người theo trường phái phản
đối Thơ Mới cho rằng cô đã “xìu”. Cho nên,
trên số báo 228 ra ngày 14/12/1933, Phụ
nữ Tân văn đã đăng bài thơ Bức thơ gởi
cho tất cả ai ưa hay là ghét lối thơ mới của
nữ sĩ để đáp lại lời dư luận:
Phải tôi đấy, Manh Manh, mấy bạn à!
Lâu quá không làm thơ, mấy bạn cũng “nột
dạ”?
Phải, tôi đây Manh Manh, mấy ông à!
Lâu quá không làm thơ, mấy ông lấy làm lạ?…
Bạn yêu tựu hỏi nhỏ: “E… chỉ sợ?
Tội nghiệp chớ! Người thì trẻ nên có hơi
khờ”…
Bạn ghét xúm hét to: “Á! nó sợ!
Đáng khiếp chửa! Người thì đẹt mà muốn
vác cờ”
Nghiêng mình thưa: “Hỡi các bạn quí yêu,
Gì mà sợ? Nghe tôi nói nhỏ: Manh chưa
“xiều”
Khoanh tay gọi: “Hỡi các ông trớ trêu,
Khoan vinh mặt, đứng ngay cho tôi tỏ mấy
điều
Thật, lâu nay tôi vắng đến “làng thơ”
Các bạn ơi, không phải phụ ai mà hững hờ,
Ừ, lâu nay tôi không có làm thơ,
Các ông ơi, không phải sợ ai mà lu lờ.
Bị lôi cuốn trong chiến trường hoạt động.
Há được ngồi không mà sấp “mấy sợi tơ
lòng?”.
Trước là hành động, thơ không mấy trọng,
Suốt đời nào để nghe quả tim con phập
phồng!
54 MAI THỊ MỸ VỊ – BÁO PHỤ NỮ TÂN VĂN VÀ…
Tuy vậy, giữa những lúc đi hăm hở,
Đôi khi tôi giựt mình nhớ đến khách làng
thơ.
Ừ, mình nín thinh họ cho nhát dở!
Thôi, lấy “túi văn chương” vét một vài bài
thơ.
Bấy lâu đành với tình cảm hững hờ,
Bây giờ cần tới nó e hồn thơ không tới?
Nói chơi, chớ có gì đâu mà chờ,
Đây một bức thơ, thơ mới! thơ mới! thơ
mới!
… Rồi tôi thấy biết bao người rủ tới.
Vừa nghe hô thơ mới của Nguyễn Thị
Manh Manh.
Người ưa với kẻ ghét lối thơ mới,
Ưa đến nghe, ghét đến “bới”, làm tôi tái xanh
… Rồi tôi nghe tiếng cười rộ lớn thêm,
Vớ được chuyện, họ cầm bút viết thôi kịch
liệt!
Kẻ nghịch la: “Đả đảo! chẳng để êm!”
Bạn thích gật đầu nói: “Cái lối thơ hay
thiệt”
Kết luận chuyện mới gần thành chuyện cũ.
Các bạn ơi, cãi với nhau thét đã nhàm rồi
Làng thơ, thơ cũ, thơ mới, có đủ:
Thơ xưa là đất cũ, thơ nay tỉ đất bồi.
Đất trước để yên, đất sau lo xới;
Đất mới thì ít khô khan hơn đất dụng rồi.
Rủ nhau khai phá, cất thêm sở mới,
Nếu thật tình mong cây thơm mọc nhánh
đâm chồi.
Bây giờ tôi thử khuyên khách làng thơ;
Đổi lại, ai ưa thơ mới lo tìm chỗ dở,
Ai ghét, ráng kiếm cái hay của thơ
Vậy, chê khen có giá trị, hoa mới sẽ nở(11)
Đặc biệt, để chứng minh cho các nhà thơ
trường phái cũ thấy rằng không phải vì thơ
Đường luật khó làm nên mới bày ra thơ
mới cho dễ sáng tác như nhà thơ Tản Đà
đã nói: “Nếu không phá cách vứt luật. Khó
cho thiên hạ đến bao giờ!”. Nữ sĩ Nguyễn
Thị Manh Manh bên cạnh việc liên tục trình
làng những vần Thơ Mới, cũng làm hai bài
thơ Đường luật gởi dự thi để ủng hộ Hội
chợ đêm qua một cuộc thi thơ do ông cử
Tùng Lâm Lê Cương Phụng – chủ tạp chí
Văn học tuần san phát động. Hai bài thơ
của nữ sĩ đã đạt giải ba trong cuộc thi này,
đó là bài Vịnh Hội chợ đêm Pháp-Việt và
bài Tặng “Văn học tuần san”. Hai bài này
được Phụ nữ Tân văn đăng tải trên số báo
195, ra ngày 13/4/1933(12).
Thơ Mới được khởi xướng ở Sài Gòn trên
tờ báo Phụ nữ Tân văn, được các thi sĩ ở
ba miền Bắc-Trung-Nam nhiệt tình hưởng
ứng và sáng tác ra những bài thơ có tính
nghệ thuật cao, đến nỗi các nhà thơ theo
trường phái cũ không có ý kiến gì được.
Sau những năm 1930, báo chí ở miền Bắc
phát triển vượt trội hơn miền Nam, phong
trào Thơ Mới được chuyển ra đất Bắc rất
thành công: “Nhưng rồi phong trào Thơ
mới chuyển ra đất Bắc và được một cơ
quan ngôn luận khác (Phong Hóa) ủng hộ
một cách đắc lực hơn”(13).
Quả thật, không ai có thể tưởng tượng nổi
sự phát triển nhanh chóng của phong trào
Thơ Mới. Tính từ khi bài thơ Tình già của
Phan Khôi xuất hiện năm 1932, trong vòng
ba năm, đến năm 1935, Thơ Mới đã khẳng
định sự thắng lợi với sự xuất hiện một loạt
nhà thơ tiêu biểu cho dòng thơ này, như
Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Xuân
Diệu… Đến năm 1936, phong trào Thơ Mới
đã chuyển sang khuynh hướng tượng
trưng rồi cuối năm 1940 chuyển sang màu
sắc siêu thực.
MAI THỊ MỸ VỊ – BÁO PHỤ NỮ TÂN VĂN VÀ… 55
Những nhà thơ theo phong trào Thơ Mới
được xem là thế hệ nhà thơ đầu tiên, mà
cách làm thơ không còn tuân thủ theo
niêm luật của thể loại thơ Trung Hoa quá
khứ, họ viết thơ bằng tiếng Việt, hướng
góc nhìn của mình ra phương Tây và toàn
thế giới rộng lớn. Một phong trào Thơ Mới
ra đời, phong phú, đa dạng, mới lạ, và luôn
có khuynh hướng ngày càng phát triển đi
lên, không ngưng đọng.
Phong trào Thơ Mới là “một cuộc cách
mạng thi ca” chưa từng có trong lịch sử
Việt Nam. Phong trào này đã tạo ra một
quan niệm mới về thơ, sáng tạo ra hình
thức thơ mới, phong cách mới, đề thơ mới,
cấu tứ mới, cảm xúc mới, ngôn ngữ mới,
biểu tượng mới, biện pháp tu từ mới… Và
thành công của Thơ Mới không chỉ dừng
lại ở việc lan rộng trên các mặt báo cả
nước, mà nó còn có ở trong chương trình
quốc văn ban cao đẳng tiểu học và ban
trung học thời kỳ này: “Thơ mới đã giành
quyền sống, đã chiếm hầu hết báo chí
sách vở, đã len vào đến học đường. Mà đã
vào học đường, nhất là ở nước ta tức là
thanh thế đã to lắm”(14).
Tóm lại, cho dù sau này phong trào Thơ
Mới ở trên Phụ nữ Tân văn không phát
triển mạnh mẽ bằng nhiều tờ báo ở miền
Bắc nhưng với việc khởi xướng phong trào
Thơ Mới, Phụ nữ Tân văn đã góp phần đổi
mới nền văn học Việt Nam ở những thập
niên đầu thế kỷ XX. Điều này phản ánh xu
thế tất yếu của xã hội Việt Nam trong thời
kỳ chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hóa
phương Tây và đang chuyển mình bước
đến những cuộc cách mạng xã hội. ‰
CHÚ THÍCH
(1) Phụ nữ Tân văn. 1933. “Một ngày kỷ niệm của
báo “Phụ nữ”: 17/8/1933”. Số 221, ngày
19/10/1933. Xem Bằng Giang. 1999. Sài Côn cố
sự (1930-1975). Nxb. Văn học, tr. 47.
(2) Phan Khôi. 1932. “Một lối thơ mới trình
chánh giữa làng thơ”. Phụ nữ Tân văn. Số 122,
ngày 10/3/1932. Xem: Thiện Mộc Lan. 2010.
“Phụ nữ Tân văn – phấn son tô điểm Sơn Hà”.
Nxb. Văn hóa Sài Gòn – Công ty sách Thời đại,
tr. 252.
(3) Manh Manh. 1933. “Viếng phòng vắng”. Phụ
nữ Tân văn. Số Xuân 1933, ngày 30/1/1933, tr.
31.
(4) Nguyễn Thị Manh Manh. 1933. “Lá rụng”.
Phụ nữ Tân văn. Số 193, ngày 10/3/1933. Xem
Thiện Mộc Lan. 2010. “Phụ nữ Tân văn – phấn
son tô điểm Sơn Hà”. Nxb. Văn hóa Sài Gòn –
Công ty sách Thời đại, tr. 263-264.
(5) Huấn Minh. 1933. “Cô Nguyễn Thị Kiêm diễn
thuyết tại Hội Khuyến học về lối thơ mới”. Phụ
nữ Tân văn. Số 210, ngày 3/8/1933, tr. 5.
(6) Huấn Minh. 1933. “Cô Nguyễn Thị Kiêm diễn
thuyết tại Hội Khuyến học về lối thơ mới”. Phụ
nữ Tân văn. Số 210, ngày 3/8/1933, tr. 5
(7) P.N.T.V. 1933. “Bài diễn thuyết của cô
Nguyễn Thị Kiêm về “Lối thơ mới”. Phụ nữ Tân
văn. Số 211, ngày 10/8/1933, tr. 8.
(8) Hoài Thanh-Hoài Chân. 2008. Thi nhân Việt
Nam 1932-1941. Nxb. Văn học, tr. 23.
(9) Lưu Trọng Lư. 1933. “Một cái khuynh hướng
mới về thi ca”. Phụ nữ Tân văn. Số 216, ngày
14/9/1933, tr. 9.
(10) Tản Đà. 1934. “Thơ mới”. Phụ nữ Tân văn.
Số Mùa Xuân, tháng 2/1934, tr. 17.
(11) Dẫn lại Bùi Đức Tịnh. 1992. Những bước
đầu của báo chí, tiểu thuyết và thơ mới (1865-
1932). Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 280-
281.
(12) Nguyễn Công Khanh. 2006. Lịch sử báo chí
Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh (1865-1995).
Nxb. Tổng hợp TPHCM, tr. 123.
(13) Hoài Thanh-Hoài Chân. 2008. Sđd, tr. 22.
(14) Hoài Thanh-Hoài Chân. 2008. Sđd. tr. 25.
(Xem tiếp trang 73)
56 MAI THỊ MỸ VỊ – BÁO PHỤ NỮ TÂN VĂN VÀ…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo Phụ nữ Tân văn (số 122, 193, 195,
208, 210, 211, 216, 221, 228, Xuân 1933,
Xuân 1934).
2. Bằng Giang. 1999. Sài Côn cố sự (1930 –
1975). Hà Nội: Nxb. Văn học.
3. Bùi Đức Tịnh. 1992. Những bước đầu của
báo chí, tiểu thuyết và thơ mới (1865-1932).
TPHCM: Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Hoài Thanh-Hoài Chân. 2008. Thi nhân
Việt Nam 1932-1941. Hà Nội: Nxb. Văn học.
(Tiếp theo trang 55)
5. Nguyễn Công Khanh. 2006. Lịch sử báo
chí Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh (1865-
1995). TPHCM: Nxb. Tổng hợp TPHCM.
6. Thiện Mộc Lan. 2010. Phụ nữ Tân văn –
Phấn son tô điểm sơn hà. TPHCM: Nxb. Văn
hóa Sài Gòn – Công ty sách Thời đại.
7. Nguyễn Vỹ. 1970. Tuấn, chàng trai nước
Việt. Tác giả xuất bản. Sài Gòn.

anh ngoc team