Vai trò ca nương trong nghệ thuật ca trù

Nguyễn Hoàng Anh Tuấn
Trường ðại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ðHQG-HCM
TÓM TT:
Bài viết nêu bật tầm quan trọng của vai
trò nguời ca nương (ñào nương) gắn liền với
nguồn gốc lịch sử nghệ thuật ca trù, và ảnh
hưởng ñến trào lưu thưởng thức nghệ thuật
này. Qua vai trò ñào nương, ta hiểu ñược
quy luật tồn tại và tiến hóa của nghệ thuật ca
trù, từ trào lưu ñại chúng, ca trù tồn tại trong
hát cửa ñình, hát khao vọng… song song với
trào lưu hát nhà tơ, ca quán; và xác ñịnh
ñược phương hướng giữ gìn, phát huy nghệ
thuật ca trù.
T khóa: ñào nương (ả ñào), ca trù.
Dẫn nhập
Cho ñến nay, chúng tôi nhận thấy có rất nhiều
công trình nghiên cứu về lịch sử và nghệ thuật ca
trù, nhưng chưa có công trình nào ñặt vấn ñề trực
tiếp nghiên cứu vai trò của nghệ nhân- ca nương
(ả ñào). Lần ñầu tiên, trên tạp chí Nam Phong bài
“Văn chương trong lối hát ả ñào” (tháng 3- 1923)
của Phạm Quỳnh và bài “Khảo luận về cuộc hát ả
ñào” (4-1923) của Nguyễn ðôn Phục, có nêu cao
vai trò kỷ cương, phẩm hạnh của ả ñào trong giai
ñoạn suy thoái. Bài viết “Vài nét về sinh hoạt của
hát ả ñào trong truyền thống văn hóa Việt Nam”
của Lê Văn Hảo (tạp chí ðại học 1963) nêu khái
quát ñịa vị và vai trò ả ñào trong lịch sử xã hội
Việt Nam (từ thế kỷ XV ñến ñầu thế kỷ XX). “Sỹ
phu, văn học sử và cô ñầu” của Tam Ích và
“Những ả ñào lưu danh trong quốc sử” của
Lương Mỵ Châu, cùng ñăng trên tạp chí Văn học
(1971) là hai chuyên khảo góp thêm tư liệu về ả
ñào, ñại khái nói ñến vai trò quan trọng của ñào
nương trong lịch sử và văn học. Bài “Văn nhân và
ả ñào” của Nguyễn Xuân Diện (ñăng trên nhiều
tạp chí) nhắc lại vai trò ả ñào trong việc nuôi
dưỡng tài thơ của các văn nhân về tinh thần lẫn
vật chất và lịch sử ñã ghi nhận mỗi một tài danh
trong làng văn học trung cận ñại ñều có ít nhất
một mối tình thắm thiết với cô ñào…
Nhìn chung, giới nghiên cứu ñã cung cấp
những tư liệu quý giá ñể có một cái nhìn ña chiều
về vai trò ả ñào. Kế thừa những tư liệu ñã có,
chúng tôi mong muốn ñóng góp một hướng tiếp
cận mới ñể có cái nhìn toàn diện hơn vai trò ca
nương trong nghệ thuật ca trù: hướng tiếp cận
lịch ñại phối hợp với ñồng ñại từ cái nhìn văn hóa
học. Phương pháp liên ngành, phương pháp
nghiên cứu lịch sử, phương pháp hệ thống cấu
trúc, xem ca trù như một hệ thống văn hóa, trong
ñó, ả ñào là một thành tố, cùng với phương pháp
so sánh ñể làm rõ mối tương quan giữa ả ñào với
con hát của các loại hình nghệ thuật trong và
ngoài nước. Trong bài viết, chúng tôi ñã sử dụng
những thuật ngữ hiện ñại như “trào lưu” và “ñại
chúng” với ý nghĩa chỉ một xu thế nhất thời của
một số ñông ra ñời và mất ñi trong một ñiều kiện
thời gian, không gian nhất ñịnh, nhằm làm rõ
quan niệm: quy luật chung của nghệ thuật nhân
loại là theo hai dòng phát triển: văn hóa dân gian
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 16, SOÁ X2- 2013
Trang 95
và nghệ thuật chuyên nghiệp
20
, thì ca trù cũng
không ngoại lệ; và vai trò ca nương xưa nay vẫn
biến thiên theo hai xu hướng như thế.
1. Tên gọi “ñào nương” và vai trò gắn liền với
nghệ thuật ca trù
1.1. Sự xuất hiện tên gọi “ñào nương” hay “ả
ñào” có thể xem là cột móc ñể truy tìm lịch sử
nguồn gốc của nghệ thuật ca trù. Trong nhiều dị
bản của truyền thuyết tổ nghề ca trù, các giáo
phường xưa vẫn thờ Mãn ðào Hoa công chúacon gái Bạch ðinh21 Xà ðại Vương, bà là một ca
nương có tư chất thông minh, có giọng hát hay và
tinh thông âm luật, ñã ñặt ra lối hát ả ñào ñể dạy
ñời [Doãn Kế Thiện sưu tầm (1943), dẫn theo Vũ
Bằng 1971: 4]. Theo ðỗ Bằng ðoàn [1994: 36-
41] thì ñời nhà Lê, ðinh Lễ quê làng Cổ ðạm,
huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh) ñược Lý Thiết Quải
và Lã ðồng Tân cho một khúc gỗ dạy làm cây
ñàn. Nhờ ñàn, ðinh Lễ ñã chữa bệnh và cưới
ñược Hoa nương- con quan châu Thường Xuân
(Thanh Hóa). Lịch triều phong tặng ðinh Lễ là
Thanh Xà ðại vương và Hoa nương là Mãn ðào
Hoa công chúa. Cũng theo thuyết ấy, Nguyễn
ðôn Phục [1923: 277] ñã thừa nhận “hát ả ñào
phôi thai phát triển sớm lắm. Duy âm ñiệu thì tản
mát ở dân gian, hoặc mỗi người chế ra mỗi khúc,
hoặc mỗi xứ hát ra mỗi giọng, khi xưa chưa có
thống nhất. Bà Mãn ðào Hoa công chúa là một
thiên tài âm nhạc, tự mình chế ra khúc hát ở các
nơi, ñem tu bổ san thuật lại ñể dạy ñời”. Duy Việt
trong truyện ðất tổ và Phú Sơn trên tạp chí Trung
Bắc chủ nhật (1943) cũng ñồng quan ñiểm cho
rằng: “lối hát ả ñào ñã lâu ñời rồi, dù không rõ
niên ñại, nhưng chắc cũng chẳng sau lối hát

20 “Văn hóa dân gian duy trì tính hỗn ñồng hai bình diện: sáng
tạo và những hoạt ñộng khác của con người, trong lúc ñó,
nghệ thuật chuyên nghiệp (sản xuất nghệ thuật) thì tách biệt
và ñi ñến khu biệt hóa thành các phương thức khác nhau: loại,
thể” [M.Cagan 2004: Hình thái học nghệ thuật, Phan Ngọc
dịch, NXB Hội nhà văn, H., tr.273].
21 Các nhà nghiên cứu cho biết các nơi có ả ñào thì thường
liên quan ñến họ ðinh, nhưng chưa có lời giải ñáp [Vũ Ngọc
Khánh 1997: 16-24].
tuồng, chèo vốn là những lối hát phát sinh từ ñời
Trần sơ” [dẫn theo Vũ Bằng 1971: 8].
Dựa theo truyền thuyết, ðại Việt sử ký toàn thư
cũng ghi nhận về năm 1025 và Việt sử tiêu án của
Ngô Thì Sỹ ñều cho rằng thời Lý Thái Tổ, trong
ban Nữ nhạc có người ca nhi tên ðào Thị giỏi
nghề hát, thường ñược vua ban thưởng, người ñời
hâm mộ nên gọi các con hát là ñào nương (ả ñào).
Công dư tiệp ký (1775) của Vũ Phương ðề, Lịch
triều hiến chương loại chí (1819) của Phan Huy
Chú, ðại Nam nhất thống chí – tỉnh Hưng Yên
(1882) của Quốc sử quán triều Nguyễn thì dựa
trên sự tích vào thời ñiểm muộn hơn, cuối nhà Hồ
(1400), một ca nhi họ ðào có công giết giặc ñược
dân làng lập ñền thờ, từ ñó ca nhi ñược gọi là ả
ñào [dẫn theo Nguyễn ðức Mậu 2010: 13]. Vì
thông tin trên chỉ cho biết giai ñoạn thế kỷ XI,
nghề xướng ca chuyên nghiệp với nghệ nhân phụ
nữ ñược gọi là “ả ñào” chứ không nói hát ả ñào là
nghệ thuật gì nên giới nghiên cứu văn học sử
quan niệm rằng ñào nương cũng như cô ñào, ñào
hát chỉ là tên gọi chung cho nữ diễn viên của các
loại hình nghệ thuật truyền thống lẫn hiện ñại và
ca trù ra ñời rất muộn từ thế kỷ XVIII trở ñi, vì
phải rất lâu sau khi các loại hình nghệ thuật dân
gian (thơ ca, hò vè, hát chèo, quan họ, …) ñã hình
thành và các thể thơ lục bát, song thất lục bát lần
ñầu tiên ra ñời trong lịch sử văn học, và cần phải
có một tầng lớp nhà nho tham gia sáng tác và
thưởng thức nó. Thứ nhất, họ nhầm lẫn “ả ñào,
ñào nương” vốn là tên gọi ñặc trưng riêng của
nghệ thuật ca trù với “cô ñào, ñào hát” của những
loại hình nghệ thuật khác, mà ñó chẳng qua cũng
là cách chuyển dịch ngữ nghĩa từ khái niệm ả ñào
của ca trù ñể gọi chung cho các nữ diễn viên sân
khấu, ñiện ảnh. Thứ hai là nhầm lẫn hát nói với ca
trù, chỉ vì “hát nói thông dụng nhất, có văn
chương lý thú nhất” [Dương Quảng Hàm 1968:
154] nên vội kết luận ca trù ra ñời rất muộn cùng
với lịch sử hát nói (sản phẩm của các nhà nho ñầu
thế kỷ XVIII trở ñi). Thực tế, ngoài hát nói, ca trù
Science & Technology Development, Vol 16, No.X2- 2013
Trang 96
còn có nhiều ñiệu hát khác22, trong ñó khúc Non
mai, Hồng hạnh chỉ ñược hát trong Lễ tế tổ (bà
Mãn ðào Hoa) có lẽ là lối hát lâu ñời nhất ñể
minh chứng cho bề dày của lịch sử ca trù.
Một số khác có căn cứ xác thực và toàn diện
hơn, trong Việt sử thông giám cương mục và Việt
Nam cổ văn học sử của Nguyễn ðổng Chi cho
rằng: Từ ñời Lý, nghệ thuật múa hát ñã thịnh, các
ả ñào ñã có ñiệu hát riêng ñều dùng lối lục bát
biến hóa ra. ðời Trần lối hát ả ñào dùng trong
giáo phường bây giờ ñã nhiều và nhờ ñược lối
văn hát tuồng pha Tàu và ta, lại thêm có thơ phú
quốc âm xuất hiện nên hát ả ñào dần dần sinh ra
lắm lối [dẫn theo Lê Văn Hảo 1963: 721-722].
Thời Lê sơ (thế kỷ XV), nghệ thuật âm nhạc có
một bước phát triển ñột phá nhờ Âm luật Hồng
ðức của Lê Thánh Tông (1460-1497), nhờ Nho
học cực thịnh, vài nho sỹ ñã tham gia sáng tác bài
hát cho ả ñào. Gia phả tiến sỹ Lê ðức Mao (1462-
1529) ñã ghi lại bài thơ Nôm ðại Nghị bát giáp
thưởng ñào giải văn (soạn trước năm 1500) mà
sau này Nguyễn Xuân Diện [2007: 72] ñã dịch và
chú thích ñó là tư liệu sớm nhất ñược biết có hai
chữ “ca trù”23. Qua tư liệu văn bia (có ghi chữ ca
trù” từ thế kỷ XV và hình ảnh cây ñàn ñáy trên
ñiêu khắc ñình làng từ trước thế kỷ XVI), Nguyễn
Xuân Diện kết luận: Ở thế kỷ thứ XV, ca trù ñã là
một bộ môn khá hoàn chỉnh. ðến thế kỷ XVIIXVIII, tổ chức giáo phường ñã hoàn bị, quản lý
và mua bán quyền hát cửa ñình [2007: 78]. Tuy
nhiên, nhóm nghiên cứu này vẫn chưa kết luận gì
về thời ñiểm lịch sử tên gọi “ả ñào” và ñiều kiện
lịch sử sản sinh ra nó. Quá trình ñiền dã của nhóm
nghiên cứu Viện Âm nhạc Việt Nam (2006) ñã
tìm ra ở Bắc Ninh có 10 ñình làng cùng thờ một
ông tướng phò giúp Hai Bà Trưng (thế kỷ I
tr.CN) tên là Doãn Công, có vợ là ñào nương (ả
ñào) [Hồ sơ ứng cử quốc gia]. Phát hiện này ñồng

22 Trong Việt Nam ca trù biên khảo, ðỗ Bằng ðoàn ñã thống
kê 46 ñiệu hát (hay còn gọi là cách hát, lối hát hay thể hát) và
có ngôn bản của các ñiệu ñể minh ñịnh.
23 Trong bài thơ này, chữ “ca trù” xuất hiện hai lần: “Thọ bôi
kể chục, ca trù ñiểm trăm; Mừng nay tiệc ca trù thị yến”.
nhất khái niệm ả ñào với khái niệm “con hát”
trong ðại Việt sử ký toàn thư và ðại Việt sử ký
tiền biên24
. Dương ðình Minh Sơn [2009: 31-36]
cũng ñã công bố một phát hiện mới: ðó là nguồn
gốc của chữ “ñào” là tên của một trong bốn ñứa
bé25
của thầy trò gánh hát thờ trong các ñền miếu
dân gian, sau này ñược Lý Thái Tổ ñưa vào làm
lối hát thờ ở Thái Miếu mà thành lối hát của ban
Nữ nhạc Cung ñình và nguồn gốc chữ trù là từ
một lối hát trù yểm trong hát thờ
26. Chữ “trù”
theo nghĩa trù yểm có gốc gác sâu xa hơn giả
thuyết “chữ trù là cái thẻ tre ghi chữ Nho, thưởng
cho ả ñào, sau khi hát ả ñào ñổi lấy tiền” [ðào
Duy Anh- Hán Việt từ ñiển, dẫn theo Nguyễn
Nghĩa Nguyên 2011: 18].
Như vậy, các nhà nghiên cứu quan niệm nguồn
gốc tên gọi ả ñào gắn liền với lịch sử ca trù trải
dài suốt một ngàn năm Thăng Long, kể từ khi có
lối hát thờ ở Thái Miếu, ả ñào (ñào nương) là tên
gọi ñặc trưng ñể chỉ người hát ca trù. Việc lý giải
và ñưa thêm cứ liệu xác thực ñòi hỏi nhiều thời
gian và sự công phu hơn, tạm thời chúng ta chấp
nhận cách giải thích trên.
1.2. Về sau, khoảng cuối thế kỷ XIX, nửa ñầu
thế kỷ XX, ả ñào thường ñược gọi là cô ñầu. Từ
“cô ñầu” thì có người cho là “cô ñào” bị nói trệch
ñi, chữ “ả” là chữ Nho có nghĩa là “cô”, ả ñào
có nghĩa là cô ñào [Vũ Bằng 1971: 11]. Một số
người hiểu từ “cô ñầu” là một cái tên xấu vì lúc

24 ðại Việt sử ký toàn thư (1479) kỷ An Dương Vương (255
tr.CN) ghi về chuyện rùa vàng chỉ ra nguyên nhân thành ñắp
không xong là do “trong núi có con quỷ, ñó là người con hát
thời trước chết chôn ở ñấy hóa thành”. ðại Việt sử ký tiền
biên, khắc in dưới thời Tây Sơn (1800) chép: “Theo ngoại sử,
Trình hoàng hậu là con hát, quê ở làng Dương Thâm, quận
Giao Chỉ. Nay ở ñấy có ñền thờ Triệu ðà và Trình hoàng hậu.
Sau này con cháu Trình Thị ñổi ra họ Trần, vẫn giữ nghiệp ca
công, nên có ñền thờ, hàng năm ñến ngày 11 tháng chạp thì
giỗ tổ”[Hát cửa ñình Lỗ Khê].
25 Cam. Quýt, Mận, ðào [khi còn nhỏ] tóc ñể chỏm, hát hầu
thánh. ðến khi cô ðào lớn lên thì nghiễm nhiên gọi là “ðào
Thị”, người bề trên gọi là con hát.
26 Hát thờ có nhiều công ñoạn khác nhau như: 1. Hát công tích
của vị thần thờ trong miếu; 2. Hát cúng thổ thần, hát cúng
cháo cho ma thập phương và hát cúng “trù yểm” trừ tà, ñuổi
ma. Lối hát trừ tà, ñuổi ma này là công ñoạn thứ hai gọi là
cúng tẩy uế, trước khi vào lễ cúng chính ở ngôi ñình làng
[Dương ðình Minh Sơn 2009: 39].
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 16, SOÁ X2- 2013
Trang 97
này có câu thành ngữ “Cô ñầu, cô ñít, cô ñuôi”
[Nguyễn Nghĩa Nguyên 2011: 19]. Nhưng, thành
kiến của dân gian ñôi khi không phản ánh ñúng
sự thật lịch sử. Ả ñào có tên là “cô ñầu” khi vào
thời ñiểm này, các ả ñào ñã tích lũy ñược vốn
liếng, kinh nghiệm, ñủ sức thoát ly khỏi giáo
phường, tự thân mở nhà hát (ca quán) ở thành thị
ñể dạy hát và kinh doanh nghề hát. Nguyễn ðôn
Phục [1923] và ðỗ Bằng ðoàn- ðỗ Trọng Huề
[1994: 44] cho rằng chữ “ñầu” ám chỉ tiền ñầu
mà theo tục lệ các học trò phải trích ra ñể phụng
dưỡng người thầy dạy hát của mình. “Cô ñầu” lại
cũng thường ñược dùng ñể chỉ những cô ca sỹ có
nhiều học trò. Cô ñầu thoát thai từ ả ñào. “Tiếng
cô thay tiếng ả cho rõ ràng, tiếng ñầu thay tiếng
ñào ñể tỏ ý tán tụng bậc danh ca” [Vũ Bằng
1971: 3-5]. Vì thế, cái tên cô ñầu không có ở
trong giáo phường và cũng không phải là người
xứ Nghệ (Bắc Trung Bộ) ñặt ra, mà do “nhập
cảng” từ Bắc Bộ vào [Nguyễn Nghĩa Nguyên
2011: 19].
1.3. Căn cứ vào tên người ca nương, người ta
còn gọi nghệ thuật ca trù bằng những tên sau: hát
ả ñào, hát cô ñầu, ñào nương ca (nương nương
ca)
27, căn cứ vào bốn không gian diễn xướng của
ñào nương: cung vua, ñình làng (ñền thần), dinh
quan (tư gia) và ca quán và phương thức biểu
diễn của họ, ca trù còn ñược gọi là hát hát nhà trò
(hát cửa ñình), hát nhà tơ (hát nhà ty, hát cửa
quyền), hát thẻ (trù); ở Thanh Hóa còn gọi là hát
ca công, hát gõ,…
Từ những ñặc ñiểm vừa nêu, chúng tôi ñi ñến
ñịnh nghĩa về ả ñào và ca trù: Ca trù là một thể
loại hát thính phòng xuất xứ từ hát thờ (tín
ngưỡng dân gian) ñược bác học hóa thành hát
chơi (giải trí cho tầng lớp trí thức), trong ñó ả ñào
giữ vai chính bên cạnh kép28 ñệm ñàn ñáy và

27 Hai khái niệm này có trong các thư tịch, Ôn Như Nguyễn
Văn Ngọc ñã sử dụng ñể làm tiêu ñề cho tác phẩm của mình –
ðào nương ca (1932).
28 Kép là một nam nghệ nhân giữ vai trò nhạc công gảy ñàn
ñáy bên cạnh ả ñào. Cách gọi “ñào” và “kép” là thuật ngữ ñặc
thù của cấu trúc văn hóa ca trù.
quan viên29
cầm chầu thưởng thức. Ả ñào là chức
danh của một nữ nghệ nhân hát ca trù, còn ñược
gọi là ñào nương hay cô ñầu.
Thiếu nữ vác ñàn ñáy, ñiêu khắc gỗ tại ñình ðại Phùng, huyện
ðan Phượng (Hà Tây)30
.
1.4. Và, một ñúc kết chung cho vai trò ca
nương trong nghệ thuật ca trù: ðó là vai trò người
nghệ nhân ña năng, một mình ñảm ñương nhiều
vai như ca, múa, diễn trò,…. Những vai này ñều
là vai chính, lại không có ai có thể thay thế hay
ñứng ngang hàng với ñào nương. Không như
những loại hình dân nhạc khác, các vai diễn kể cả
vai chính cũng có thể thêm vào hay bỏ bớt thế
nào cũng ñược. ðờn ca tài tử không có ca nương
thì tay ñàn vẫn tạo ñược một buổi nhạc, ñám ñông
có thể tham gia cuộc hát như hát với nhau, thi
nhau hát…Chèo mà thiếu cô ñào hay anh hề, múa
rối nước mà thiếu mất nhân vật chú tiễu… cũng

29 Theo tập quán dân gian thì ñi hát ca trù là sinh hoạt của bậc
phong lưu công tử như con của các quan phủ, huyện mà tục lệ
xưa thường gọi là quan viên tử ñược ñặc ân miễn tạp dịch
trong làng.
30 Nguồn: ðặc khảo ca trù Việt Nam, Nhiều tác giả, NXB
Viện Âm nhạc H., (2006), tr. 531
Science & Technology Development, Vol 16, No.X2- 2013
Trang 98
không ảnh hưởng gì. Nhưng với ca trù thì không,
ñây là một nghệ thuật ñã ñược công thức hóa
thành bộ ba bất biến: ñào- kép- quan viên. Thậm
chí nếu vắng anh kép hay quan viên cầm trống thì
ả ñào vẫn có thể cầm ñàn ñáy31
vừa hát vừa ñàn.
“Thoạt kỳ thủy, ả ñào hát với một nhạc công
ñứng gảy ñàn ñáy hòa theo, và một nhạc công
nữa chuyên cầm một cặp sênh tiền ñể gõ nhịp.
Nhạc công gảy ñàn là kép ñàn, còn nhạc công gõ
sênh gọi là kép chân bìa. Về sau, công việc của
kép chân bìa không có gì khó khăn nên ả ñào
dùng một cổ phách vừa gõ vừa hát, chỉ cần có kép
ñàn mà thôi. Từ ñó trở ñi thì chỉ có hai người,
một trai một gái hợp lại thành cặp nên thiên hạ
gọi vắn tắt là ñào và kép” [Tchya 1959: 47]. ðiều
nay nghĩa là ả ñào có thể ñóng thay vai của kép
nhưng kép (hay bất cứ ai) không thể thay thế vai
của ñào. Không có ả ñào thì không còn cuộc hát
ca trù, vì bản chất ca trù là nhạc hát chứ không
phải nhạc ñàn, kép ñàn chỉ ñóng vai phụ hỗ trợ
nâng ñỡ cho tiếng hát ñào nương. Vì thế, ñôi lúc ả
ñào ñược hiểu ñồng nhất với toàn bộ nghệ thuật
ca trù (ả ñào là ca trù).
2. Vai trò ca nương khi ca trù còn trong trào
lưu ñại chúng
Khi Thăng Long còn là chốn ñế ñô, trào lưu hát
ả ñào rất thịnh hành, từ Hà Tĩnh trở ra Bắc, không
huyện, tỉnh nào không có. Mỗi huyện có ñến 2,3
làng ả ñào, có khi 2,3 huyện giao hiếu với nhau
mà kết thành ñoàn thể gọi là Ty giáo phường,
ñứng ñầu là quản giáp (ông Trùm), chia nhau giữ
quyền hát cửa ñình, ñình của tốp nào, tốp ấy hát,
ñược hưởng quyền lợi và nghĩa vụ công ích làng
xã. Tư liệu văn bia cũng cho thấy trong suốt một
thời gian lịch sử lâu dài (từ năm 1672) ñông ñảo
nhân dân ñã yêu thích ca trù, coi việc thưởng thức
ca trù như một nhu cầu văn hóa, việc biểu diễn ca
trù ñã ñem lại nguồn lợi kinh tế cho người nghệ

31 Làng ca trù ñã quen với hình ảnh tiên nữ ôm ñàn ñáy trên
ñiêu khắc ñình làng, cũng như không lấy làm lạ khi ñào nương
Phạm Thị Huệ ñược mệnh danh là “ñào ñàn ñầu tiên của nghề
ca trù” [“Ca trù – một di sản văn hóa cần ñược bảo tồn” 2009].
sỹ dân gian lẫn các nhà tổ chức [Nguyễn Xuân
Diện 2007: 82].
2.1. Vai trò ca nương trong lễ thức dân gian
Vai trò, bản chất gốc của cô ñào Việt Nam
không phải xuất phát từ văn hóa kỹ nữ như geisha
Nhật Bản hay kisaeng Hàn Quốc, mà ñó là vai trò
phục vụ tín ngưỡng làng xã. “Hát ả ñào xưa có
tính chất chủ yếu là phụng sự văn hóa dân gian
trong những buổi cúng tế, … Vai trò quan trọng
nhất của ả ñào tự khởi thủy ñến nay, là vai trò của
một nghệ thuật bình dân chủ ý tô ñiểm cho một
khía cạnh của tôn giáo bình dân là sự cúng tế
Thành hoàng” [Lê Văn Hảo 1963: 719, 734]. Will
Durant nói: “Thuyết linh hồn ñã phát sinh ra thi
ca. Văn thơ phát sinh từ các bài hát tôn giáo hoặc
các câu thần chú do các thầy pháp tụng rồi truyền
khẩu lại” [2006: 162, 173]. Theo quy luật ñó, hát
ả ñào có lịch sử lâu ñời từ những bài hát tôn giáo
chứ không phải là những bài thơ hát nói trữ tình
ra ñời muộn như nhiều người vẫn nghĩ. ðặc trưng
của hát thờ là trước mỗi buổi diễn luôn có một
cuộc tế lễ, sau là hát dâng hương với lời văn trau
chuốt, nghiêm trang, khác với dân ca lao ñộng
như hò, vè, hát ví, quan họ không cần nhạc ñệm,
hát thờ có ñủ ca lẫn nhạc. Hát thờ ca trù có hát
thờ tổ sư và hát tế thành hoàng. Những bài hát thờ
còn ñược dùng trong hát thi ñể tuyển ñào.
2.1.1.Trong hát thờ tổ sư, ả ñào ñóng vai “con
nhà nghề” tri ân và tưởng vọng về vị tiền bối khai
sinh và bảo hộ nghề ca trù, cũng như các phường
thủ công, bách nghệ, nghề hát ả ñào cũng theo
trào lưu tìm cho ñược một vị làm tổ sư. Một số
nơi ở Nghệ Tĩnh và làng Cổ ðạm (Hà Tĩnh) thờ
các vị thần ðạo giáo như ðông Phương Sóc và
Lý Thiết Quải. Làng ðại xá, huyện Tiên Lữ, tỉnh
Hưng Yên thì thờ cô ðào có công giết giặc Minh
(ñầu thế kỷ XV). Dân Thanh Hóa thì thờ bà Mãn
ðào Hoa (Bạch Hoa), vào ngày lễ tổ, khúc Non
mai Hồng hạnh ñược hát ñể tưởng nhớ công của
bà sáng tạo ra nó. “Ả ñào tổ sư” là một biểu
tượng của sự truyền nghề. Tập tục làng xã quy
ñịnh mỗi giáo phường là một họ riêng ñể tiện bề
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 16, SOÁ X2- 2013
Trang 99
truyền nghề ñàn hát. Mô hình giáo phường như
một gia ñình tương tự mô hình nhà geisha hay
kwonbeon (trường ñào tạo kisaeng). Trong giáo
phường, các thế hệ ả ñào ñều là con nhà nòi (ả
ñào nòi), người ngoài giáo phường muốn học hát
phải xin ñược vào làm con nuôi một người trong
họ nghề thì mới ñược giáo phường công nhận.
Người học hát lúc nhỏ gọi là xướng nhi, khi
trưởng thành, tốt nghiệp mới gọi là ñào nương,
ñào nương trẻ học với ả ñào già, giống như các
maikô học nghề geisha từ Bà Ngoại, các Mẹ và
các Dì.
ðịa vị, tuổi tác ả ñào và quá trình truyền nghề
ñã phát sinh một tục lệ mang tính nhân văn là
“tục thờ thầy”, là hình thức các học trò trích một
phần tiền hát ñể phụng dưỡng người thầy dạy hát
cho mình (gọi là tục tiền ñầu). Cho nên, ả ñào lão
thành dạy ñược nhiều học trò thì cũng ñược
chung thân sung sướng vì khoản “tiền ñầu” như
một khoản bảo hiểm lao ñộng ngày nay.
Cho thấy, từ truyền thống, ả ñào là một cái
nghề trong sạch và quý giá. “Cô ñào là người
hoàn toàn tài tử, biết hát nhưng vẫn tham dự vào
công việc gia ñình, vẫn giữ nề nếp cũ- cái “phong
thói nhà quê” là ñến mùa cấy hay mùa tơ tằm, họ
lại về làm lụng như con nhà lương dân khác” [Lê
Văn Hảo 1963: 731].
2.1.2. Hát thi là ñể tuyển ñào lên kinh hát chúc
hỗ, song lúc ñạt giải ở hát thi, ñào nương phải
làm nghĩa vụ trong ba tối hát cầm gọi là hát “tạ
thần, tạ dân”. Tùy vào ñịa ñiểm tổ chức mà cho
thấy tính toàn dân của cuộc hát thi như: thi ðình,
thi Xã, thi Tỉnh. Hát thi ở tỉnh là quy mô nhất,
ñược Bộ Lễ tổ chức vào dịp khánh tiết hoặc lễ
vạn thọ, có thông báo về làng trước hai tháng
nhằm tuyển chọn ñào nương vào kinh làm ñào
ngự (ñào trong cung). Lịch trình thực hiện, chế ñộ
khen thưởng, các bài bản lễ nghi, các nguyên tắc
kiêng khem trong sinh hoạt ăn uống,…Bộ Lễ ñã
ñịnh sẵn. Tính chất trọng ñại của sự kiện này
phản ánh thái ñộ trân trọng nghệ thuật và vai trò ả
ñào trong ñời sống tinh thần của quần chúng.
Trong hát thi, vai trò ñào nương cũng như vai trò
một sỹ tử ở trường thi, họ phải trổ tài ñể tiến thân,
phải tuân theo những luật lệ khắc khe như: kỵ tên
húy. Cô ñào hát hay chỉ vì phạm húy mà phải bị
truất là chuyện thường. Các ñào nương ngoài hát
hay, múa giỏi còn phải làm ñược 4 câu thơ chữ
Hán và gõ phách hát 4 câu thơ của mình…Vai
chính của ñào nương trong hát thi thể hiện rõ ở
chỗ căn cứ vào ñào mà chọn kép, ñào nào kép
nấy. Cuộc thi chỉ luận về tài ả ñào, không phân
biệt tuổi, hễ hát hay là hơn; hát hay mà ñàn hỏng
thì quan viên sẽ cử người khác ñàn thay, sợ mai
một tài hát. Còn về sắc, nhan sắc ả ñào có ñược
chấm hay không là ở nhân cách có ñứng ñắn
không, hay chỉ là hạng “giang hồ tứ chiếng”. Ca
nương thi ñỗ thì ñược vinh dự khoác áo nhà nghề
trong lễ mở xiêm áo của trường nhạc (giáo
phường) như một lễ tốt nghiệp của các sỹ tử
trường văn. Vì hát thi là một cuộc vui chung của
xã hội, một vinh dự trong giới nghệ thuật nên ả
ñào trở thành “người của công chúng”, dưới áp
lực của số ñông, sự thành công trong cuộc thi là
mục ñích cả ñời của ñào nương.
2.1.3. Trong hát tế thành hoàng, vai trò của ả
ñào tựa như vai trò của các cô ðồng (hầu bóng)
trong chầu văn. “Ả ñào dự phần vào các lễ vào
ñám thờ thần là một tục lệ kỳ cựu, khẩn thiết
ñóng rễ sâu trong văn hóa dân gian” [Lê Văn Hảo
1963: 734]. ðể cho ñồng chóng “lên” (hiển linh),
các cung văn cũng diễn xướng như ả ñào vừa hát
những câu xướng tụng công ñức, kể lể, cầu
khẩn… Ca trù và chầu văn giống nhau ở hình
thức ca hát chầu thánh, ñều có chung chủ thể và
không gian văn hóa- vùng ñồng bằng Bắc Bộ,
chung lịch sử phát triển cực thịnh và suy tàn (thế
kỷ XIX- ñầu thế kỷ XX), chung một nền văn hóa
trọng nữ- ca trù thờ ðào Hoa Hải Tiên, chầu văn
thờ ðạo Mẫu. Nhưng, ả ñào không ñem thân xác
làm ñối tượng trung gian dẫn xuất linh hồn như
các cô ðồng, mà chỉ bằng lời ca, giọng hát như
một cách hoán dụ, ả ñào truyền tải thông ñiệp ñến
thế giới thần linh. Song, tác dụng của thanh sắc ả
Science & Technology Development, Vol 16, No.X2- 2013
Trang 100
ñào cũng hiệu quả không kém cách lên ñồng của
các cung văn. Hiểu ñược ñiều nay, ta sẽ không
mấy ngạc nhiên khi nghe các giai thoại huyền
hoặc trong làng ca trù như chuyện một ả ñào khi
ñương hát ở ñền Hàng Trống thì bị “thần nhập”
làm cho sùi bọt mép, ngất ñi vì ñã hát xúc phạm
ñến hồn nữ thần vốn cũng là một ả ñào ñược thờ
tại ñền
32
.
Sự phối hợp vai ñào và vai kép trong hát thờ
của ca trù cũng có khác biệt thú vị so với các liền
anh liền chị của quan họ (trường hợp quan họ
dùng trong hát thờ). Các ả ñào thi nhau liền
giọng, thỉnh thoảng nam mới hát lót (hát lót cửa
ñình), trong khi “các ñiệu hát quan họ nam nữ
ñều hát, vai nam bình ñẳng với vai nữ.
Ở phạm vi rộng hơn, vai trò phục vụ tín
ngưỡng của ả ñào khiến người ta liên tưởng ñến
các vũ nữ devadasi33
của Ấn ðộ. Cả hai ñều có
chút tri thức, ngoài hát xướng, họ có thể dự các
cuộc ñàm thoại trong các cuộc hội họp tư gia.
Mang tiếng là phụng sự thần linh, nhưng ñối
tượng thực sự vẫn là các quan lại, các tu sỹ có
chức sắc ở ñịa phương. Hầu như các nền văn hóa
nông nghiệp, ban ñầu những nhân vật “chóp bu”
của xã hội lãnh nhiệm vụ cử hành các cuộc tế lễ,
dần các ñiển lễ ngày càng phức tạp, cần có một
hạng người chuyên môn hơn, nên giới ả ñào và
devadasi ngày càng thêm ñông. Nhưng khác với
các nàng devadasi sống cô ñộc trong một nhà tu
kín, mỗi ngày múa hát hai lần trong ñền, khi ra
ngoài tiếp khách trong các lễ công cộng hoặc tư
gia họ phải nộp một phần tiền kiếm ñược cho
tăng lữ, ả ñào có ñời sống tự do hơn, khi nào có lễ
hội thì “ñến hẹn lại lên”. Nghệ thuật của ả ñào
mang tính trang nghiêm hơn nghệ thuật của
devadasi. So với vai trò vũ nữ phô diễn hình thể

32 Xem “Những chuyện linh thiêng trong thế giới ca trù” của
Nguyễn Xuân Diện, http://www.vanhoahoc.edu.vn…
33 Devadasi là danh từ Ấn, Hồi phiên âm theo tiếng Pháp, chỉ
những ca vũ nữ (kỹ nữ) trong các ñền tamil (Nam Ấn), theo
nghĩa gốc là “nữ tỳ của các thần”, như một bầy linh nữ nhiệm
vụ chính là múa hát trước các ngẫu tượng nhưng thực chất là
làm vui tai các tu sỹ Bà La Môn [DURANT Will 2004: 228-
229] .
của devadasi Ấn ðộ, vai trò ca nương thể hiện
chất giọng của ả ñào Việt Nam có nét “tế nhị” và
trang nhã hơn nhiều. Họ hát trước hương án
(trong ñình- không gian hẹp) cho các chức sắc
của làng xem và hát ở ngoài sân (không gian
rộng) cho ñông ñảo quần chúng thưởng thức. Hát
cửa ñình vừa mang tính chất thính phòng vừa
mang tính chất ñại chúng, trong những lễ hội lớn,
cần huy ñộng vài chục ñào nương thay phiên diễn
xướng kéo dài tới cả tuần lễ, cho nên tục hát thẻ
mới nảy sinh, ñể tiện lợi việc chi trả tiền một lần
cho ñoàn hát. Ngoài thưởng thẻ, sau khi hát thờ
thần xong, ả ñào còn ñược các quan viên thưởng
tiền trực tiếp, gọi là “lệ thưởng ñào”34
.
Sự xuất hiện của những cái thẻ và quá trình
biến ñổi của nó sang hình thức thưởng tiền trực
tiếp phản ánh bước ngoặt chuyển tiếp vai trò ñào
nương từ một “người hoàn toàn tài tử” sang một
nghệ sỹ chuyên nghiệp.
2.2. Vai trò ca nương trong các tập tục/lễ nghi
khác
Bên cạnh tập tục thờ cúng, lệ khao vọng cũng
là một trào lưu phong hóa của chốn hương thôn
Việt Nam, người thi ñỗ, ñược thăng chức, hay lên
hạng bô lão,… ñều phải khao. “Cỗ khao nhiều
nơi dùng lệ nặng, dân làng ăn xong ñến lượt tiệc
riêng ñể khoản ñãi bọn chức sắc, bọn này ở lại
chơi ñêm, bày ra nào là tổ tôm, nào là thuốc
phiện, nào là hát ả ñầu…” [Phan Kế Bính 1972:
131]. Hát khao vọng không thuần túy thưởng thức
văn nghệ như hát chơi, mục ñích là hướng tới sự
chúc tụng một cá nhân trước công chúng. Vai trò
của ñào nương là “người cổ vũ”, dùng tiếng hát

34 Làng Bát Tràng và làng Thị Cầu (Bắc Ninh) có tục thưởng
giải ca chúc thần. “Bọn thập bát (18 con trai) phải ra dõng
dạc gọi bọn con hát ở trước mặt dân, xong rồi ném tiền xuống
chiếc mâm thau dưới chiếu ñào kép ngồi”. Làng Phù Lưu (Bắc
Ninh) có tục phẩy quạt rao, lấy tiền thưởng ñào, mỗi khi có lễ
vào ñám thì mời một số quan viên, dân chúng bên Hà Dương
sang dự tiệc tại ñình và có ả ñào giúp vui. Người chủ tế sau
khi xướng mấy câu thơ liền lấy tiền thưởng ñào, dân hai làng
biểu lộ sự ñồng tình bằng cách: người Hà Dương cầm ñũa gõ
bát mà rao, người Phù Lưu ñứng dậy, cầm quạt chỉ lên trời
vừa phất vừa rao [Xem Bắc ninh khảo dị, dẫn theo Lê Văn
Hảo 1963: 737].
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 16, SOÁ X2- 2013
Trang 101
ñể vinh danh ñối tượng ñược chúc tụng, làm tăng
thêm tính long trọng, linh ñình của cuộc lễ. Cũng
như hát thờ, hát khao cũng kể lể công ñức, ca
ngợi sự nghiệp, nhưng ñây là công ñức và sự
nghiệp của người còn sống, ñang hiện hữu. Tham
gia vào cuộc lễ khao vọng trong không gian tư
gia, ả ñào ñã góp phần mở rộng phạm vi hoạt
ñộng và tính chất của nghệ thuật ca trù. So với
chèo và hát bội cũng là những loại hình nghệ
thuật rất ñược ưa dùng trong lễ khao vọng, thì sự
có mặt của ả ñào và nghệ thuật ca trù ñã khẳng
ñịnh ñẳng cấp của chủ thể cuộc lễ. Trong khi
phần lớn các võ thần và hạng quân nhân thích
chèo, tuồng (mang nét dân dã) thì các văn nhân
chọn hát ả ñào là ñể thể hiện sở thích mang tính
trí tuệ, tính quý phái.
Nếu như hát khao vọng ñối tượng ñược chúc
tụng là dân thường thì hát chúc hỗ
35
, ñối tượng
ñược chúc là vua, nhưng dân chúng là nhân
chứng ñến tụ họp ñể xem. Vì giữ vai trò là người
ñại diện dân nói lời sùng bái vua, ñồng thời thay
vua kể công ñức của vua cho dân nghe nên ñào
nương hát chúc hỗ ñược bao cấp hoàn toàn mọi
chi phí, nếu tài năng còn ñược phong làm ñào
ngự giữ một ñịa vị danh giá nhất của nghệ thuật
ca trù.
3. Vai trò ca nương khi ca trù ñã biến thành
thú vui của một thiểu số (giới quý tộc, trí thức)
Khi ñược tiến cung, rồi vào nhà quan, ñào
nương ñã thoát ly khỏi môi trường ñại chúng, trở
thành ñối tượng sở hữu ñộc quyền của một tầng
lớp yếu nhân trong xã hội: quý tộc, trí thức. Tầng
lớp này có nhu cầu giải trí bằng hình thức viết
lách, soạn thành nhạc và nuôi dạy ả ñào hát
xướng lên ñể tôn vinh ñẳng cấp của họ: “Kẻ
thường ñâu dám chi nghìn lạng/ Phải ñợi vương
tôn quẩy rượu sài” 36. Nhu cầu này ñã cho ả ñào

35 Hát chúc hỗ là những bài hát chúc tụng công ñức của vua,
tức là vừa tế, vừa hát xướng, nguyên nghĩa chữ “chúc hỗ” là
lời chúc cho vua, mà nhân dân thường gọi là tấu nhạc ca.
36 Trích trong bài thơ của Ninh Tốn (1743-1795) tiến sỹ ñời
vua Lê Cảnh Hưng (1740-1786) viết ca ngợi phường hát Hòe
Nhai.
một cơ hội giữ vai trò quan trọng trong văn học
(một cố vấn tinh thần, một nàng thơ) và trong
sinh hoạt văn hóa của giai cấp quý tộc phong
kiến, góp phần tạo nên văn hóa ả ñào- văn hóa kỹ
nữ.
3.1. Ca nương với vai trò là nhân vật văn hóa
của giai cấp thống trị
Trong cung ñình, ả ñào ñóng vai trò cung nữ
phục vụ giải trí ca, nhạc, vũ. ðặc ñiểm của âm
nhạc cung ñình là “thích cả nhạc hát lẫn nhạc ñàn,
chuộng âm sắc trang nhã, sự tinh tế của hệ thống
ñàn dây gảy
37”, là sự tiếp biến mô phỏng hệ thống
nhã nhạc Trung Hoa, trang phục của con hát sang
trọng gấm vóc sặc sỡ, ñèn lồng kết hoa công phu,
ñắt tiền… “biểu diễn trên thuyền rồng, trong ñêm
thanh vắng nghe như khúc nhạc của quần tiên tụ
hội”38. Bức chạm tiên nữ cưỡi hươu gảy ñàn ñáy
là một biểu tượng cho hình ảnh ñào ngự. Những
yếu tố ñó làm nên phong cách ả ñào: tính ñài các,
phong lưu vương giả, trong một hình thức giải trí
cao cấp.
Hệ quả của nó: Ả ñào ñược chọn ñể tiếp sứ, giữ
vai trò truyền tải thông ñiệp ngoại giao văn hóa.
Trong văn bia Bản huyện giáo phường lập ñoan
bi ký còn ghi: “Năm Long ðức thứ 3 (1734), giáo
phường An Thanh huyện Lập Thạch ñã ñược mời
về kinh ñể hát xướng ñón sứ bộ các nước”
[Nguyễn Xuân Diện 2007b: 80]. Trong những
thời khắc của lịch sử, ả ñào còn ñược xem như
một quân cờ cạnh tranh chính trị trên lĩnh vực văn
hóa tư tưởng: “Khi ðào Duy Từ thổi vào môn hát
tuồng một nguồn sinh lực mới tại phủ ðồng Sơn
(Bình ðịnh) thì ngoài Bắc ñang lúc thịnh thời của
các chúa Trịnh- muốn thưởng thức một thứ nhạc
bác học ñi song song với tửu sắc, thi ca. Chúa
chọn hát cô ñào… ñể gây ra một nghệ thuật khả

37 Trúc sinh (ñàn khô), ñàn cầm, ñàn 7 dây, ñàn 9 dây, ñàn
tranh. Cường ñộ dàn nhạc họ dây luôn vừa tầm, không lấn át
tiếng hát [Bùi Trọng Hiền, in trong Hồ sơ ứng cử quốc gia:
70],
38 Trích Tang thương ngẫu lục [dẫn theo Dương ðình Minh
Sơn 2009: 93-94].
Science & Technology Development, Vol 16, No.X2- 2013
Trang 102
dĩ thay thế ñược cả tuồng, lại cả chèo” [Tchya
1959: 46].
3.2. Ca nương với vai trò nghệ nhân phục vụ
thú tiêu khiển của tầng lớp trên
Sùng bái văn hóa ca vũ cung ñình, nhiều quan
ñại thần, trong nhà, cũng thường nuôi riêng một
nhóm ả ñào ñể tiện bề hưởng thú phong lưu, như:
Nguyễn Hữu Chỉnh nuôi hơn mười ả ñào ñể tiếp
ñãi tân khách, ông còn ñặt ra những bài hát mới
cho ả ñào múa hát, hào hoa phong nhã thứ nhất ở
kinh kỳ [Hoàng Lê nhất thống chí, dẫn theo
Nguyễn Nghĩa Nguyên 2011: 85]. “Nguyễn Khản
thích hát xướng, gặp khi con hát có tang trở cũng
cứ cho tiền bắt hát, không lúc nào bỏ tiếng tơ,
tiếng nhạc” [Phạm ðình Hổ 1989: 42-47]. Xét
mối quan hệ giữa nghệ thuật và chính trị, có thể
xem vai trò ả ñào trong dinh quan (tư gia) là vai
trò quan kỹ (hay tư kỹ), tức là kỹ nữ phục vụ giải
trí cho quan lại, quý tộc ñịa phương. Song, vai trò
ả ñào có phần thiên về nghệ thuật nhiều hơn là
hầu hạ, không giống như các kiseang kwanggi
(quan kỹ) của Hàn Quốc, ngoài vai trò nghệ thuật,
các kisaeng còn ñảm ñương nhiều vai trò rất xa lạ
với văn hóa ả ñào, như vai trò y nữ khám chữa
bệnh cho con gái nhà quý tộc- yakbang kisaeng
(dược phòng kỹ), vai trò thợ may, may vá trang
phục cho giới quý tộc- sangbang kisaeng (thường
phòng kỹ sinh)… Nguyên do lịch sử kisaeng
ñược viết nên từ cuộc ñời của các hwarang- con
nhà gia thế bị bắt làm tù nhân, hay tầng lớp lang
thang bị bắt làm nô lệ, trong khi giới ả ñào xuất
thân từ giáo phường ở nông thôn, không có sự
phân biệt rõ nét về chức năng hay cấp bậc.
Khoảng từ cuối thế kỷ XIX, ñào nương ñã tích
lũy ñược vốn liếng, kinh nghiệm, tự thân thoát ly
khỏi giáo phường, ra thành thị mở ca quán. Ca
quán là một không gian tự do, trong ñó ả ñào giữ
vai trò người nghệ sỹ ñồng thời là người chủ kinh
doanh nghề hát. Cái tên cô ñầu ñã nói lên tầm
quan trọng của vai trò này. Ca quán không dành
riêng cho giới quý tộc và quan lại, mà ñó là nơi
các văn nhân tài tử (giới trí thức) thường lui tới,
những người chấp nhận chi trả một khoản tiền
không nhỏ ñể ñổi lấy thú vui tao nhã từ sự xa xỉ,
cầu kỳ của nghệ thuật và cái ái tình lãng mạn của
cô ñầu. Xưa kia, người hát ñến nhà người nghe (ả
ñào ñến hát ở tư gia), giờ ñây người nghe ñến nhà
người hát (ca quán). Cái mối quan hệ “riêng một
thú thanh sơn ñi lại
39” này ñã làm nên nhiều áng
thơ tuyệt tác trong văn Nôm ta, gắn liền với
những bậc tài danh như: Nguyễn Công Trứ
(1778-1858), Dương Khuê (1839-1902), Trần Tế
Xương (1870-1907)…
3.3. Ca nương với vai trò là ñối tượng khơi
nguồn sáng tạo và thưởng thức thơ
Trong giai ñoạn sơ khởi, ca trù là những bài hát
giản dị gần với phương ngôn và ca dao40, nhưng
một khi ñã có tài hoa của các văn nhân can thiệp,
ca trù trở thành một sinh hoạt nghệ thuật sáng tác
và thưởng thức thơ. Thế kỷ XIX ghi dấu sự hoàn
thiện của thể cách hát nói cả về âm nhạc, văn
chương và việc thưởng ngoạn [Nguyễn Xuân
Diện 2007: 83]. Ca trù ñược ñơn giản hóa nhạc
khí và người biểu diễn ñể tiện cho việc diễn
xướng thơ trong không gian thính phòng, người
nghe hát như là “một thứ khách thính văn học
(salon littéraire) của xã hội Tây phương” [Vũ
Bằng 1971: 14]. Lúc này, thanh sắc ả ñào ñóng
vai trò phục vụ nhu cầu khoái cảm “ñược nghe
thơ mình qua giọng giai nhân”- một khoái cảm
tổng hợp của nhiều khoái cảm. Khoái cảm làm
ñược một bài thơ rồi tự cầm chầu thưởng thức nó
giữa chốn ñông người ñều là những tài tử giai
nhân, khác loại công chúng bình thường. Khoái
cảm ñược cộng hưởng niềm vui, cùng chia sẻ
những giá trị văn hóa “vừa tư tưởng, vừa âm luật
hỗn hợp với nhau, vừa văn chương vừa mỹ thuật
cùng nhau ñiều hòa, vừa tài tử, vừa giai nhân
cùng nhau gặp gỡ, cùng nhau sánh cạnh mà chia

39 Trích câu thơ của Dương Khuê trong bài Gặp ñào Hồng,
ñào Tuyết.
40 Những bài hát cổ hiện còn lưu truyền ñều mang nặng sắc
thái này [ðỗ Bằng ðoàn 1960: “Quá trình tiến hóa của ca trù
và ảnh hưởng của ca trù ñối với văn hóa dân tộc”, TC.Bách
khoa, số 132, tr.28].
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 16, SOÁ X2- 2013
Trang 103
vui” [Nguyễn Văn Ngọc, dẫn theo Nguyễn ðức
Mậu 2010: 53]. ðể ñảm ñương vai trò ấy, ả ñào
phải có kỹ năng tổng hợp, ngoài kỹ năng nghề ca
xướng, ả ñào còn phải học chữ ñể có thể ñọc và
hiểu thơ, ñể hát cho ñúng ý tứ của tác giả. “Xem
như kỹ nữ các nước, trong nghề hương phấn ca
ngâm ñều có mùi pha văn học cả, vì nước nào
cũng có một thứ chữ, một thứ sách vở riêng của
nước ấy, càng làm kỹ nữ càng phải giao thiệp
nhiều, càng phải dò dẫm xem lấy những chuyện
khóc cười, chuyện xa gần, ñể làm cái tài liệu tiếp
khách” [Nguyễn ðôn Phục 1923]. Theo Nguyễn
Xuân Diện, việc trí thức hóa nghề ả ñào là một
biệt lệ chưa từng có ở những người phụ nữ bình
dân. Chính cái tri thức ñã làm nên nét văn hóa ả
ñào: sang trọng, ñài các, phong lưu, khu biệt với
các kỹ nữ tầm thường khác
Vai trò “nàng thơ” của ả ñào cũng tựa như ca
nương của ca Huế, “câu ca xứ Huế, cô ñầu tỉnh
Thanh”. Cùng chung một nguồn gốc nhã nhạc
cung ñình, nghệ thuật trong dinh phủ của các
chúa Nguyễn ở ðàng Trong phát tán thành một
lối gọi là ca Huế (gồm cả ca và ñàn) hay là “lối
hát ả ñào của người Huế”. Ca Huế tương ñồng
với ca trù về lối chơi văn chương, tri âm tri kỷ, sự
trau chuốt của giọng hát, ngón ñàn và không gian
thính phòng, một lối chơi của các ông hoàng bà
chúa. Như ả ñào, ca nương của ca Huế cũng giữ
một vai không thể thay thế. Nhưng, ca nương của
ca Huế gắn liền với văn hóa cố ñô Huế nên mang
bản sắc ñịa phương rõ nét hơn ả ñào. Hình thức
“mượn tiếng mỹ nhân ñể thưởng ngoạn nghệ
thuật” của hát ả ñào còn dễ khiến người ta liên
tưởng geisha Nhật Bản hay kisaeng Hàn Quốc
như “ả ñào Nhật Bản, ả ñào Hàn quốc”. Tương tự
ca quán, nhà geisha hay tửu quán, trà ñộng của
kisaeng, ñều là không gian phòng, không có
những tiết mục sôi ñộng như ca vũ tạp kỹ, chỉ
thuần túy là không gian trò chuyện, luận ñàm văn
chương, … Vì thế, nhạc cụ cũng khá tinh giản, ả
ñào chỉ dùng ñôi phách tre; geisha ngoài cây ñàn
shanmisen còn dùng sáo trúc và mấy chiếc trống,
trống nhỏ tsutsumi vác lên vai, trống nhỡ ôkawa
kê trên ñùi, còn trống lớn taikô ñặt cạnh người
diễn; kisaeng dùng ñàn gayageum (12 dây) và
ñàn geomungo (6 dây).
Trong vai trò khơi nguồn sáng tạo nghệ thuật, ả
ñào góp phần làm phong phú các ñiệu hát ca trù
bằng cách bắt chước ñiệu hát Huế, ñiệu hát xẩm,
ñiệu hát phường chèo,… làm thêm “gia vị” cho
cuộc hát. Công lao tiếp biến của ả ñào ñã quyết
ñịnh tên gọi cho ñiệu hát, như một số ñiệu nếu
kép hát thì gọi là hà nam, là hát trai, còn ñào hát
thì gọi là hát nói, hát gái. Tương tự, các kisaeng
Hàn Quốc cũng có công thiết lập trường phái
nghệ thuật bản ñịa như thơ sijo (thơ thời ñiệu),
nghệ thuật hội họa (kisaeng Juk Hyang- thế kỷ
XIX), nghệ thuật múa kiếm (kisaeng Unsim- thế
kỷ XVIII), thậm chí các kisaeng còn tham gia viết
lời và diễn xuất những vở pansori (truyện kể ñại
chúng); các geisha Nhật Bản ñã có công phát
triển nghệ thuật kịch kabuki, họ còn viết hồi ký,
nhờ ñó mà người phương Tây mới biết về thân
phận làm geisha… Hiểu ñược ñiều này, chúng ta
mới thấm thía câu nói: “Hàng trăm tiên sinh ñạo
học khuyên ñời, không bằng sức một con hát41”.
Ngoài ra, vai trò của nhan sắc ả ñào cũng ñóng
góp không nhỏ trong việc tạo nên sức hấp dẫn của
nghệ thuật ca trù trong hát chơi. Giới quý tộc, trí
thức thích ñi hát và có cảm tình gắn bó với nghệ
thuật là vì cái ñẹp của ả ñào. “ðào nương thuở ấy
hễ tóc ñen mườn mượt, tóc dài thậm thượt thì
ñược người yêu. Thường thì ñào nương hát về
ñêm, người nghe vì thế phải trằn trọc suốt canh
thâu…” [dẫn theo Trần Văn Khê 1960: 71]. Sắc
ñẹp của ñào nương là một mảng ñề tài lớn trong
các sáng tác của văn nhân, như các bài: Tặng cô
ñầu Văn của Dương Tự Nhu; Tiểu ca cơ của
Phạm ðình Hổ; Long thành cầm giả ca của
Nguyễn Du; thậm chí bài Bỡn cô ñào già của
Nguyễn Công Trứ còn ñem cái duyên của ả ñào

41 Nhận ñịnh của Trần Hồng Thụ, danh sỹ ñời Minh [ðàm
Phàm 2004: 6]
Science & Technology Development, Vol 16, No.X2- 2013
Trang 104
ra ñể ñùa cợt tình tứ… cho thấy sự cảm tình ñặc
biệt và sự ñề cao vai trò của nhan sắc ả ñào.
Kết luận
Từ những nội dung trình bày, chúng tôi rút ra
một số kết luận sau:
1. Hai trào lưu nghệ thuật trên ñều có sự ñóng
góp thiết yếu của thanh sắc ả ñào. Trong lịch sử,
với vai trò nghệ nhân (con hát) và vai trò người
phục vụ (kỹ nữ). Văn hóa ả ñào luôn thích nghi
với những biến ñổi của phong khí thời ñại. Thời
ñại chuộng nhạc thì họ ñàn ca, hát xướng, thời ñại
chuộng thơ thì họ có thể làm bạn thơ với văn
nhân, thời ñại chuộng sắc thì họ hóa thân như kỹ
nữ, “làng chơi làm sao thì nhà nghề làm vậy”.
2. Qua vai trò ả ñào, nghệ thuật ca trù tồn tại
song hành hai ñặc tính vừa bác học vừa dân gian.
Ngay trong thời ñại tính bác học trông có vẻ “lấn
át tính dân gian” (từ sau thế kỷ XIX), hát cửa
ñình vẫn là một hoạt ñộng văn hóa tồn tại và bám
rễ lâu bền trong ñời sống nhân dân ở các làng xã
cho ñến những năm ñầu thế kỷ XX.
3. ðể khôi phục những tinh hoa của ca trù, ta
cần phải khu biệt ñào nương ngày nay với ả ñào
ngày xưa. Vai trò ñào nương ngày nay chỉ là vai
trò của cô ca sỹ hát lại các bài hát xưa, hoặc hát
những bài mới do những khán giả yêu ca trù sáng
tác, nhưng, không tạo ra ñược không gian trữ tình
của “tài tử giai nhân cùng nhau hội ngộ, cùng
nhau sánh cạnh chia vui”. Các ca nương trong các
câu lạc bộ ca trù hiện nay chỉ ñóng một vai rất
hạn chế của ca trù hát chơi trong ca quán ngày
trước, chưa nói ñến vai trò phục vụ tín ngưỡng
hay các sự kiện văn hóa lễ hội mà xưa kia các ñào
nương ñã ñảm nhiệm.
4. Mặt khác, ñể nghệ thuật ca trù tồn tại ñược
trong ñời sống ñương ñại thì vai trò ñào nương
ngày nay cần phải ñược ñại chúng hóa, ñào
nương không thể chỉ ñóng một vai “nghệ nhân
giữ gìn vốn cổ”, mà còn phải ñảm ñương nhiều
vai như một ngôi sao, một nghệ sỹ thực thụ trên
các phương tiện truyền thông, ñiện ảnh,… ðồng
thời, các nhà ñạo diễn và các nhà thiết kế chương
trình nên khuyến khích những ngôi sao hóa thân
vào vai ả ñào hiện ñại, như trường hợp Madona
hóa thân làm geisha chẳng hạn.
The Role of Female Vocalists in Catrù Art
• Nguyen Hoang Anh Tuan
University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM
ABSTRACT:
This paper highlights the importance of the
role of female vocalists (ñào nương)
associated with the historical origins of Catru
art, and their influence on the trend to enjoy
this kind of art. Through female vocalists’
role, existence and evolution rules of Catru
are thoroughly understood. From popular
trend, Catru exists in the form of communal
house theater in the village (hát cửa ñình),
banquet theater (hát khao vọng), etc. going
hand-in-hand with madarin home theater (hát
nhà tơ), bar (ca quán), and determining the
orientation to preserve and promote Catru
art.
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 16, SOÁ X2- 2013
Trang 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Will DURANT 2004: Lịch sử văn minh Ấn
ðộ (Nguyễn Hiến Lê dịch), Nxb VHTT,
Cty VH Phương Nam phát hành, TpHCM,
556tr.
[2]. Will DURANT 2006: Nguồn gốc văn minh
(Nguyễn Hiến Lê dịch), Nxb VHTT,
TpHCM, 204tr.
[3]. Dương Quảng Hàm 1968: Việt Nam văn
học sử yếu, BGD-Trung tâm học liệu xuất
bản, SG., 496tr.
[4]. ðàm Phàm 2004: Lịch sử con hát (Cao Tự
Thanh dịch), Nxb Tổng hợp Tp.HCM, 324
tr.
[5]. ðỗ Bằng ðoàn- ðỗ Trọng Huề 1994: Việt
Nam ca trù biên khảo, Nxb Tp.HCM, 678
tr.
[6]. Hát cửa ñình Lỗ Khê 1980, (Nhiều tác giả),
Sở VHTT Hội Văn nghệ H. xb.
[7]. Hồ sơ ứng cử quốc gia 2006 (phần Phụ
lục): Hát ca trù người Việt, 7/2006 ñệ trình
UNESCO xét duyệt di sản phi vật thể
truyền khẩu nhân loại, Bộ Văn hóa thông
tin, H., 216 tr.
[8]. Lê Văn Hảo 1963: “Vài nét về sinh hoạt của
hát ả ñào trong truyền thống văn hóa Việt
Nam”, TC ðại học số 29, tr. 718 – 750
[9]. Nguyễn ðôn Phục 1923: “Khảo luận về
cuộc hát ả ñào”, Nam phong tạp chí, số
70/1923, tr.277-289
[10]. Nguyễn ðức Mậu 2003 (gt&bs): Ca trù
nhìn từ nhiều phía, Nxb VHTT, H., 620tr.
[11]. Nguyễn ðức Mậu 2010: Ca trù Hà Nội
trong lịch sử và hiện tại, Nxb H., 700tr.
(khổ A4)
[12]. Nguyễn Xuân Diện: “ði tìm vẻ ñẹp của
nghệ thuật ca trù”,
http://www.vanhoahoc.edu.vn…
[13]. Nguyễn Xuân Diện 2007: Lịch sử và nghệ
thuật ca trù, khảo sát nguồn tư liệu tại
Viện nghiên cứu Hán – Nôm [chuyên khảo
trên cơ sở luận án Tiến sỹ Ngữ văn Hán
Nôm], Nxb Thế Giới H.
[14]. Phạm ðình Hổ 1989: Vũ trung tùy bút,
(bản dịch của ðông Châu Nguyễn Hữu
Tiến, Nguyễn Quảng Tuân khảo ñính và
chú thích), Nxb Trẻ, Hội NCGDVH
TP.HCM, tr. 42, 43, 46 & 47
[15]. Phan Kế Bính 1972: Việt Nam phong tục,
[“Bộ quốc sử – Contribution à l’histoire
d’Annam”, trích ðông Dương tạp chí số
24- 49, 1913- 1914], Phong trào văn hóa
xb, SG., 366 tr.
[16]. Tchya 1959: “Ca kịch Việt Nam”, Phổ
thông Tạp chí văn hóa (chủ bút Nguyễn
Vỹ) số 25, tr.46- 50 [Cơ sở biên mục dựa
vào số 1(15/11/1958)]
[17]. Trần Văn Khê 1960: “Hát ả ñào”, TC.
Bách khoa số 81, 82, & 83
[18]. Trần Văn Khê 2000: Trần Văn Khê và âm
nhạc dân tộc, Nxb Trẻ, Tp. HCM.
[19]. Vũ Bằng 1971: “Hát ả ñào- lịch sử ra sao?
Ông tổ là người nào? Mà ả ñào, cô ñầu và
nhà tơ có khác nhau không?”, TC. Văn
học, số 138, tr.3- 5

VJOL

Tạp chí khoa học Việt Nam Trực tuyến (Vjol.info) là một dịch vụ cho phép độc giả tiếp cận tri thức khoa học được xuất bản tại Việt Nam và nâng cao hiểu biết của thế giới về nền học thuật của Việt Nam.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *