PHÁT TRIỀN XÃ HỘI MỘT SỐ QUAN ĐIỄM VÀ KINH NGHIỆM TỪ CHÂU ÂU
LỊCH SỬ – VĂN HOÁ – XÃ HỘI CHÂU ÂU
Ths. Trần Nguyệt Minh Thu
Viện Nghiên cứu Châu Âu
L. QUAN ĐIỂM VỀ PHÁT TRIỂN VÀ
PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
Theo quan điểm triết học duy vật biện
chứng, phát triển là một phạm trù dùng để
chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật. Sự phát
triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo
đường thẳng mà rất quanh co, phức tạp. Trên
cơ sở kế thừa có chọn lọc những tình hoa mà
loài người đã sáng tạo ra (đặc biệt trong thế
kỷ XIX), biểu hiện tập trung ở triết học cổ
điển Đức, kinh tế chính trị học cổ điển Anh
và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp. Chủ
nghĩa Mác ra đời đã đánh dấu bước ngoặt
trong triết lý về phát triển và phát triển xã
hội.
Theo quan điểm Mácxít, phát triển xã
hội là sự tiến triển theo chiều hướng đi lên
của các phương thức sản xuất, các hình thái
kinh tế – xã hội đã và đang diễn ra trong lịch
sử loài người do sự tác động qua lại biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất,
của cơ sở hạ tầng kinh tế đóng vai trò quyết
định cho sự phát triển xã hội, nhưng muốn
phát triển lực lượng sản xuất thì phải thay đổi
căn bản các quan hệ sản xuất. Mỗi cá nhân
‘ Giáo trình Triết học Mác Lê Nin, tr. 186-191. Nxb
Chính trị Quốc gia, 2006.
được xem như một đơn vị nhỏ nhất của xã
hội, xã hội là sự nối tiếp nhau trong lịch sử
của các thế hệ loài người, chính sự tiếp nối
này làm cho bản thân mỗi xã hội luôn vận
động và biến đổi không ngừng.
Vấn đề cốt lõi của hình thái kinh tế xã
hội mới chính là giải phóng và phát triển lực
lượng sản xuất lên một tầm cao và ngày càng
hoàn thiện các quan hệ sản xuất phù hợp.
Những điều này sẽ tạo cơ sở cho sự hình
thành một thượng tầng kiến trúc mới về pháp
lý, chính trị, tư tưởng, văn hoá tương ứng.
Trong bối cảnh ấy, con người với tư cách là
cá nhân và cộng đồng được giải phóng khỏi
mọi áp bức, bóc lột, bất công, được tạo điều
kiện ngày càng nâng cao về thể lực, trí lực,
nhân cách để có thể phát huy năng lực của
bản thân một cách tự do và sáng tạo.
Lý luận về sự phát triến xã hội của các
nhà xã hội học phương Tây nói chung đều
chú ý tới tư tưởng về sự tiến bộ, điều này có
thể thấy rất rõ ở Auguste Comte (1798-
1857), nhà lý thuyết xã hội, nhà triết học
thực chứng người Pháp, người khai sinh ra
ngành xã hội học và Herbert Spencer (1820-
1903) nhà xã hội học người Anh. A.Comte
đã phân tích và cho rằng xã hội phát triển
theo con đường tiến hoá từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp. Sự phát triển xã hội
biểu hiện qua sự phân hoá, đa dạng hoá và
Phát triển xã hội…
chuyên môn hoá chức năng cũng như mức độ
liên kết giữa các tiểu cấu trúc xã hội.
H.Spencer với nguyên lý tiến hoá xã hội đã
đưa ra quan điểm rằng các xã hội loài người
phát triển đều tuân theo quy luật tiến hoá xã
hội từ cấu trúc nhỏ, đơn giản, chuyên môn
hoá thấp, không ổn định, dễ phân rã đến xã
hội có cấu trúc lớn, phức tạp, chuyên môn
hoá cao, liên kết bển vững và ổn định. Tuy
các nhà xã hội học sử dụng thuật ngữ phát
triển xã hội với những ý nghĩa tương đối
khác nhau, song về cơ bản, nó được dùng để
phân biệt một xã hội công nghiệp giàu có,
phồn vinh, hiện đại so với một bên là xã hội
nông nghiệp kém phát triển, nghèo nàn, lạc
hâu.
II. MỘT SỐ KINH NGHIỆM TỪ CHÂU ÂU
Trong những năm đầu của thế kỷ 20, ở
nhiều nước châu Âu, cá nhân và gia đình vẫn
phải tự đảm bảo nguồn sống cũng như các
dịch vụ xã hội cơ bản như chăm sóc sức khoe
trẻ em, chăm sóc sức khoẻ người già cũng
như cho bản thân người lao động bằng việc
người dân tự đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm
tuổi già, bảo hiểm thất nghiệp v.v… Trợ cấp
nghể nghiệp là một khoản thu khá quan trọng
đối với những người lao động trong các cơ
quan nhà nước. ở một số quốc gia nằm trong
lục địa châu Âu, chính phủ không chỉ thực
hiện chế độ trợ cấp với người lao động trong
các doanh nghiệp nhà nước mà còn trực tiếp
điều hành việc trợ cấp nghề nghiệp trong các
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, chủ
yếu đối với các hãng công nghiệp lớn. Thời
điểm này, quỹ hỗ trợ xã hội của chính phủ
41
chủ yếu tập trung vào hỗ trợ người nghèo và
cung cấp dịch vụ cơ bản, thiết yếu về y tế,
giáo dục.
Toàn bộ hệ thống hỗ trợ thu nhập, ví dụ
trong trường hợp sinh con, có con ở tuổi vị
thành niên, thất nghiệp, đau ốm, tuổi già
v.v… xuất hiện ở Tây Âu trong những năm
đầu sau Thế chiến thứ II, nghĩa là thập niên
đầu tiên của thế kỷ 20. Thập kỷ thứ hai và
thứ ba sau đó, toàn bộ hệ thống giáo dục và y
tế công được xây dựng cùng lúc. Vậy là
trong khoảng thời gian từ những năm 1960
cho tới những năm 1970, nhiều quốc gia Tây
Âu đã được mệnh danh là “những nhà nước
giàu có” (welfare state). Nói cách khác, vào
thời điểm đó, nếu đem so sánh với những
nước đang phát triển thì các quốc gia này đã
trở nên thực sự tiến bộ với hệ thống phúc lợi
xã hội tiên tiến dành cho người dân.
Khả năng đầu tư cho bảo trợ xã hội của
mỗi quốc gia cũng phần nào phản ánh mức
độ phát triển xã hội của quốc gia đó. Đối với
các quốc gia châu Âu, đảm bảo xã hội cho
người dân không chỉ dừng lại ở việc đảm bảo
nguồn thu nhập, trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ y
tế và giáo dục mà còn có nghĩa là đảm bảo
thu nhập cao và suốt đời để ổn định cuộc
sống, cung cấp đa dạng các loại hình dịch vụ
xã hội, nỗ lực giảm tiến tới xoá bỏ hoàn toàn
tình trạng nghèo đói.
Giống như những nước khác ở Tây Âu,
vào thời điểm những năm 1990, nước Pháp
đã dành khoảng 23,4% tổng sản phẩm quốc
42 NGHIÊN CỨU CHÂU ÂU – EUROPEAN STUDIES REVIEW N°1 (88).2008
nội (GDP) cho việc đảm bảo xã hội. Theo số
liệu của Cục Thống kê Cộng đồng Châu Âu,
những nỗ lực nhằm đảm bảo các mục tiêu
phát triển xã hội đó đã đưa nước Pháp đứng
vào vị trí thứ tư trong danh sách cách quốc
gia châu Âu bấy giờ, sau Hà Lan, Bi, Đan
Mạch nhưng trước Đức, Anh và ݲ.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, tìm hiểu
các chính sách xã hội đối với người dân là
việc làm cần thiết để xác định vai trò của giá
trị xã hội trong hệ thống kinh tế. Chẳng hạn,
với một xã hội đói nghèo, giá trị xã hội của
họ không được quan tâm đúng mức, đói
nghèo cũng đồng nghĩa với việc thiếu ăn,
thiếu ăn sẽ đe dọa tới sức khoẻ, sức khoe sa
sút làm giảm khả năng học tập và lao động.
Lúc này con người rất cần được chăm sóc,
song với các nước nghèo, tập trung phát triển
kinh tế cũng đồng nghĩa với việc tập trung
đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng như xây đựng
và nâng cấp cảng, biển, đường bộ, đường sắt
v.v.., họ sẽ không thể quan tâm đến những
dịch vụ hỗ trợ trực tiếp cho các hộ gia đình
như cung cấp nhà ở, cung cấp lương thực
v.v… và điều đó có thể sẽ khiến người ta bị
đẩy sang bên lề xã hội.
Tất nhiên điều này còn phụ thuộc nhiều
vào thực tế cũng như quan điểm của các nhà
hoạch định chính sách, bởi lẽ trong nhiều
thập kỷ qua, những hỗ trợ về nghèo đói đối
với các cá nhân và hộ gia đình vẫn là những
Bảo hộ xã hội ở Pháp. Số liệu trích trong cuốn “Kinh
nghiệm của Pháp về nền kinh tế hồn hợp”.
nhu cầu cấp bách cần thực hiện chứ không
phải chỉ là việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật.
Điều đó nói lên rằng, cách thức tổ chức của
một xã hội rất quan trọng. Có rất nhiều yêu
cầu cần phải làm đối với một xã hội, đó
không chỉ là việc phổ cập giáo dục mà phải
phát triển kinh tế bền vững, cải thiện chính
sách, trong đó chú trọng đảm bảo dinh dưỡng
và điều kiện chăm sóc sức khoẻ tối thiểu
dành cho người nghèo, đặc biệt là trẻ em.
Đảm bảo những nhu cầu sống cơ bản cho
mỗi cá nhân là cơ sở để xây dựng và phát
triển xã hội một cách đồng bộ.
Ngày nay tình trạng này vẫn còn tồn tại
khá phổ biến ở những nước đang phát triển.
Đối với các quốc gia này, bài học từ việ
phân bổ ngân sách, xây dựng hệ thống phúc
lợi xã hội, xây dựng cơ cấu kinh tế của các
quốc gia châu Âu giai đoạn đầu thế kỷ 20 là
những kinh nghiệm quý. Song việc mô phỏng
theo cách thức tổ chức hệ thống phúc lợi xã
hội châu Âu là tương đối khó vì rất tốn kém
và thường chỉ có thể thực hiện được ở những
nước có trình độ phát triển cao. Điều quan
trọng là mỗi quốc gia cần đuy trì sự tăng
trưởng ổn định cho nên kinh tế vĩ mô trong
mọi điều kiện, bởi đó là yếu tố cần thiết để
phát triển xã hội.
Bên cạnh sự tăng trưởng về kinh tế, để
đạt được mục tiêu phát triển bền vững, mỗi
xã hội cần tập trung vào việc phát triển
nguồn nhân lực như xoá đói giảm nghèo,
nâng cao thu nhập, đảm bảo việc làm cho
Phát triến xã hội…
người lao động, thúc đẩy sự hoà nhập xã hội,
nâng cao đời sống kinh tế, song phải hạn chế
bất bình đẳng trong xã hội thông qua các
cách thức phân phối thành quả của tăng
trưởng, chám sóc sức khoẻ cộng đồng v.v…
Vấn đề chăm sóc sức khoẻ trẻ em: Trước
Thế chiến thứ II, tại châu Âu, gia đình và họ
hàng vẫn giữ vai trò cơ bản trong việc trông
nom và chăm sóc sức khoẻ trẻ em. Các gia
đình châu Âu thuộc giới thượng lưu và trung
lưu thường thuê người giúp việc để phụ giúp
họ. Những hỗ trợ của chính phủ chỉ đơn giản
là sự bao cấp về giáo dục. Mô hình này tương
đối giống với một số nước đang phát triển
trong giai đoạn hiện nay. Việc chăm sóc trẻ
em do gia đình đảm nhiệm, song họ có thể
tìm kiếm những hỗ trợ từ bên ngoài thông
qua việc thuê mướn lao động từ những gia
đình khó khăn về kinh tế. Can thiệp và hỗ trợ
từ phía chính phủ dành cho trẻ em thường là
trợ cấp về dình dưỡng, tiêm chủng miễn phí
cho phụ nữ mang thai và trẻ nhỏ, chăm sóc
sản khoa, phổ cập giáo dục tiểu học, cung
cấp nước sạch, đảm bảo vệ sinh môi trường
v.v…
Sau Thế chiến thứ II, vai trò của nhà
nước đối với trẻ em tại các quốc gia châu Âu
không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ hỗ trợ
nhằm phổ cập giáo dục nữa mà được mở
rộng thêm. Đó là những hỗ trợ từ khi trẻ còn
trong bụng mẹ, hỗ trợ bằng tiền mặt hoặc
miễn giảm thuế cho những gia đình có trẻ
nhỏ. Một vài quốc gia còn thực hiện những
hỗ trợ ngoài gia đình như mở trường mẫu
43
giáo miễn phí để giúp đỡ trẻ em và gia đình
họ. Song tất cả những điều này vẫn không
ngăn được sự sụt giảm nhanh chóng tỷ lệ
sinh trong hơn hai thập niên qua của các
quốc gia này.
Vẫn còn nhiều tranh cãi về những chính
sách can thiệp của chính phủ đối với trẻ em.
Một số quan điểm cho rằng, trên thực tế còn
tổn tại những trường hợp lợi dụng việc miễn
giảm thuế cho các gia đình có trẻ nhỏ để
chuộc lợi. Số khác cho rằng hỗ trợ về học tập
và giáo dục đối với trẻ em ở độ tuổi đi học
mới thực sự cần thiết, bởi nó vừa hiệu quả về
mặt kinh tế, vừa liên quan trực tiếp tới việc
giáo dục cho trẻ khả năng tự lập khi trưởng
thành. Vấn để gây tranh cãi ở chỗ liệu có cần
phải chăm sóc và hỗ trợ trẻ em trước tuổi đến
trường không? Hầu hết các gia đình châu Âu
đặc biệt là những gia đình nghèo, học vấn
thấp hoặc có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn tin
tưởng rằng những chăm sóc bên ngoài gia
đình dành cho trẻ chưa đến tuổi đi học chính
là sự ưu việt, đề cao xã hội tư bản, điều đó sẽ
có lợi cho sự phát triển của trẻ trong tương
lai.
Đối với các nước đang phát triển, do tỷ
lệ sinh cao nên số lượng trẻ em tương đối
lớn, khoảng 40% dân số. Những nước này do
chưa đủ điều kiện hỗ trợ nên việc nuôi dạy
trẻ của nhiều gia đình, đặc biệt là các gia
đỉnh đông con, quả là một gánh nặng, nạn
đói nghèo, thất học cũng từ đây mà gia tăng.
Trong bối cảnh đó, việc ban hành những
chính sách hạn chế mức sinh và phổ cập giáo
dục là một trong những việc làm cần thiết
của chính phủ nhầm nâng cao ý thức về vai
trò làm cha, làm mẹ, khẳng định nhu cầu
44 NGHIÊN CỨU CHÂU ÂU – EUROPEAN STUDIES REVIEW N°1 (88).2008
được học hành của trẻ, tránh tình trạng đói
nghèo thất học như đã nêu trên.
Vấn đê việc làm: Trước những năm
1930, ở châu Âu có rất ít chính sách liên
quan tới việc đảm bảo việc làm và thu nhập
cho người lao động. Trợ cấp thất nghiệp và
các chương trình hỗ trợ việc làm trong giai
đoạn này hầu như chưa được quan tâm. Sau
Thế chiến thứ IÍ, các chính sách này đã được
quan tâm hơn và được thực thi trong suốt quá
trình phục hồi kinh tế kể từ đầu những năm
1950. Thành tựu đạt được chính là sự đẩm
bảo về việc làm, mức thu nhập, đời sống của
người dân cũng vì thế mà ổn định và phát
triển.
Sự tăng trưởng kinh tế của các quốc gia
châu Âu không chỉ làm tăng nhu cầu sử dụng
lao động mà còn làm phong phú hơn cách
thức sử dụng lao động. Việc sử dụng lao
động thời vụ vẫn tồn tại, thậm chí còn có xu
hướng gia tăng ở một số quốc gia, gây ảnh
hưởng không nhỏ tới đời sống của một số
nhóm dân cư, chủ yếu là thanh niên, những
người mới bước vào nghể và những người
thất nghiệp đang tìm việc làm.
Bảng 1. Tỷ lệ người lao động thời vụ tại châu Âu (đơn vị: %)
1992 2000 STT Tên nước Nam Nữ Nam Ni
1 Bi 3,1 7,6 6,6 12,1
2 Đan Mạch 9,9 12,1 8,7 11,7
3 Đức 10,1 11,2 12,5 13,1
4 Hy Lạp 10,3 10,2 11,5 15,6
5 Tây Ban Nha 30,8 39,2 30,7 34,6
6 Pháp 9,1 12,2 14,3 15,8
7 Ailen 6,6 11,8 3,6 5,9
8 Italia 6.2 9.7 8,8 12,2
9 Lucxembua 2,3 3,9 2,7 4,4
10 Hà Lan 6,7 13,9 11,3 17,1
11 Áo 5,7 6,4 7,6 8,4
12 Bồ Đào Nha 9,7 12,7 18,4 22,7
13 * Phần Lan 13,4 19,5 14,5 20,9
14 * Thuỵ Điển 11 14,8 12,1 16,5
15 Anh 4,4 6,7 5,7 7,6
16 Liên minh Châu Âu 9,9 12,2 12,5 14,5
Nguôn: Eurostat, European Labour Force Surveys.
Phát triển xã hội…
Qua số liệu ở bảng 1 có thể thấy tại hầu
hết các quốc gia châu Âu, số lao động thời
vụ là nữ chiếm tỷ lệ cao hơn nam giới, thậm
chí có trường hợp cao gấp đôi. Ví dụ tại Bi,
vào năm 1992, số lao động thời vụ là nữ
chiếm 3,1%, nam là 7,6%; tới năm 2000, tỷ
lệ này tăng lên gần gấp đôi ở mỗi nhóm,
trường hợp Hà Lan và Bô Đào Nha cũng
tương tự.
Tây Ban Nha là nước có số lao động thời
vụ cao nhất của EU15 (thời điểm 1992 số lao
động thời vụ được xác định theo tỷ lệ nam:
30,8%, nữ: 39,2%), lao động dạng này tăng
nhanh trong khoảng thời gian từ 1985 đến
1995 và có xu hướng giảm song không đáng
Kế trong những năm sau đó.
Bỉ, Pháp, Italy, Hà Lan, Bồ Đào Nha,
Thuy Điển là một số quốc gia có xu hướng
gia tăng nhanh tỷ lệ những người lao động
thời vụ. Điều này phát triển tỷ lệ thuận với
tình trạng thất nghiệp vẫn đang gia tăng ở
châu Âu. Thời điểm 2005, số người xin trợ
cấp thất nghiệp tại châu Âu là 8,7%, tăng
1,5% so với năm 2003.
Các nước đang phát triển hầu như không
có trợ cấp thất nghiệp bởi ở những nước này
có tới 60-80% dân số làm nông nghiệp. Một
số nước có trợ cấp thất nghiệp cho người dân,
song đó có thể chỉ là một phần rất khiêm tốn.
Đối với những nước nghèo, vai trò của quốc
gia trong việc chăm sóc y tế, sức khoẻ cho
người dân còn quan trọng hơn nhiều so với
sự đảm bảo về việc làm cho người lao động,
45
bởi lẽ mục đích của việc đảm bảo việc làm và
thu nhập cho người lao động, đặc biệt là
những người lao động có thu nhập thấp, cuối
cùng cũng để hướng tới việc đảm bảo cho họ
những nhu cầu tối thiếu như ăn, mặc, ở và
nhu cầu được chăm sóc y tế, chăm sóc sức
kho .
Bảo hiểm và vấn đề chăm sóc sức khoe:
Trước Thế chiến thứ II, tiết kiệm cá nhân, hỗ
trợ từ người thân và bạn bè, những kế hoạch
bảo hiểm cá nhân đóng vai trò quan trọng
trong việc giảm nhẹ gánh nặng của nền kinh
tế đối với việc chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
Công nghiệp hoá và chế độ làm thuê đã tạo
nên những biến đổi căn bản hoàn cảnh sống
của dân cư cũng như phương thức tổ chức an
sinh xã hội. Giai đoạn đầu của cuộc cách
mạng công nghiệp nửa đầu thế kỷ 19, ở châu
Âu đã xuất hiện tự phát các hình thức giúp
đỡ của người lao động với nhau, của các hội
từ thiện và nhà thờ do sức lực của người lao
động bị vắt kiệt trong các nhà máy tư nhân
mà không có chế độ bảo hiểm ốm đau, thất
nghiệp. Cuối cùng, nhà nước phải đứng ra
thực hiện chức năng bảo hiểm xã hội thông
qua việc ban hành các đạo luật và thành lập
các cơ quan chuyên trách, quá trình này diễn
ra trong suốt nửa sau thế kỷ 19 và đầu thế ký
20.
Những năm 1930 của thế kỷ này và đặc
biệt là những năm sau Thế chiến thứ II đã
đánh dấu bước phát triển mới của hệ thống
an sinh xã hội. Chế độ bảo hiểm xã hội ở các
46 NGHIÊN CỨU CHÂU ÂU – EUROPEAN STUDIES REVIEW N°1 (88).2008
nước phương Tây được mở rộng đáng kể,
xuất hiện hệ thống bảo hiểm xã hội ở Liên
Xô và sau đó là ở các nước xã hội chủ nghĩa
khác. Hệ thống bảo hiểm này ra đời và đã
được đánh giá là thiết chế cốt lõi của hệ
thống an sinh xã hội hiện đại, giải quyết nhu
cầu bảo hiểm thất nghiệp, ốm đau, tai nạn lao
động, tuổi già y.v…
Tại một số quốc gia châu Âu khác, trợ
cấp y tế cũng như trợ cấp thất nghiệp được
căn cứ vào khoản thu nhập trước đó của cá
nhân, đặc biệt là thu nhập từ các công việc
ổn định, chế độ bảo hiểm sức khoẻ cũng như
những chương trình phúc lợi uỷ thác cho nhà
nước chịu trách nhiệm.
Thuy Điễn được xem là một quốc gia có
dịch vụ phúc lợi xã hội kiểu mẫu, người dân
Thuy Điển được nhà nước đảm bảo những
nhu cầu xã hội tối thiểu. Luật pháp liên quan
tới vấn để phúc lợi xã hội của Thụy Điển
được xây dựng rất sớm và khá phát triển sau
Thế chiến thứ II. Nguồn ngân sách cho quỹ
phúc lợi được lấy một phần từ tiền đóng bảo
hiểm hàng năm và một phần khác từ các
khoản thuế tại trung ương và địa phương.
Dịch vụ y tế của Thuy Điển được giới
thiệu lần đầu vào năm 1995. Trẻ dưới 2 tuổi
được chăm sóc sức khoẻ miễn phí, thuốc men
được cung cấp cho người dân với giá rẻ và
thậm chí miễn phí trong một số trường hợp.
Khi ốm đau, người lao động và phụ nữ đang
nghỉ nuôi con sẽ được nhận tiên mặt và một
số khoản phụ phí khác tính theo tỷ lệ thu
nhập. Chỉ phí cho việc khám, chăm sóc phụ
nữ mang thai và sinh nở do bảo hiểm y tế chi
trả. Bên cạnh đó, Thuy Điển cũng như các
quốc gia châu Âu còn có những chương trình
chăm sóc y tế khác như chương trình chăm
sóc và bảo hiểm răng miệng v.v…
Ở Thuy Điển, quy định về trợ cấp cho
cha mẹ trong trường hợp sinh con được trả
tổng cộng là 15 tháng, 2 trong 15 tháng này
trợ cấp tương đương với 85% thu nhập bình
thường (áp dụng từ năm 1996), trong 10
tháng tiếp theo trợ cấp tương đương với 75%
thu nhập (áp dụng từ năm 1996), 3 tháng tiếp
sau đó trợ cấp được tính theo tiêu chuẩn nhất
định là 60 SEK/ngày (áp dụng từ năm 1995).
Cha mẹ cũng có quyền nghỉ ở nhà trông con
ốm cho đến khi con 12 tuổi và vẫn được
hưởng 75% lương (áp dụng từ năm 1996),
khoản tiển này tối đa là 120 ngày/năm cho
một đứa con.¹
Chi phí xã hội ở Thuy Điển được sử
dụng nhằm hỗ trợ cho hoạt động chăm sóc
trẻ em, phụ cấp cho các gia đình có trẻ dưới
16 tuổi. Những người tàn tật được hưởng phụ
cấp hàng năm, trong trường hợp tử vong sẽ
được hưởng một số phụ phí và trợ cấp khác.
Việc bồi thường cho người lao động được
gắn liền với chương trình chăm sóc sức khoẻ
quốc gia. Trong loại hình bảo hiểm này,
người tuyển dụng lao động chịu trách nhiệm
hoàn toàn về tài chính, bảo hiểm toàn bộ thời
‘ Vũ Quang Hào, Báo chí và đào tạo báo chí Thuỵ
Điển, tr.39-40.
Phát triển xã hội…
gian lao động cũng như trên chặng đường từ
nhà đến nơi làm việc và từ nơi làm việc về
nhà của người động. Ngoài ra, còn bao gồm
một số phụ phí như việc điều trị y tế miễn
phí, cấp phát thuốc, cung cấp một số dụng cụ
y tế v.v…
Về một khía cạnh nào đó, có thể nói
ngành y tế là hình ảnh thu nhỏ của một xã
hội. Đối với các nước đang phát triển, còn
nhiều vấn để cần phải làm để có thể đáp ứng
được nhu cầu cơ bản của mọi người dân, đó
là nhu cầu được chăm sóc y tế. Những nước
này cần tập trung vào việc nâng cao khả năng
tiếp cận dịch vụ y tế cả về khía cạnh địa lý
cũng như kinh tế cho người dân, đặc biệt là
người nghèo, đấu tranh phòng chống các
bệnh truyền nhiễm, ngăn chặn tình trạng suy
dinh dưỡng, nâng cao nhận thức của người
dân về vấn để đảm bảo vệ sinh và chăm sóc
sức khoẻ, cung cấp thông tin về tầm quan
trọng của việc cần phải có cuộc sống khoẻ
mạnh, đúng tiêu chuẩn, bao gồm cả việc hút
ít thuốc lá v.v…
Trợ cấp, lương hưu và chăm sóc sức
khoẻ người già: Tuổi già không chỉ là hiện
tượng sinh lý tự nhiên mà còn là một hiện
tượng xã hội. Tính chất xã hội của thời kỳ
này trong cuộc đời mỗi người được đặc trưng
bởi một số yếu tố như về hưu hoặc thay đổi
hoạt động nghề nghiệp, thay đổi địa vị xã
hội, thay đổi lối sống nói chung và các định
hướng giá trị nói riêng, thay đổi chức năng
cũng như vai trò của cá nhân. Sức khoẻ người
47
già liên quan tới nhiều yếu tố khác nhau như
điều kiện lao động, nơi ở và chế độ dình
dưỡng, đời sống văn hoá tinh thần, tình trạng
bệnh tật v.v… Những yếu tố này phụ thuộc
vào điều kiện phát triển chung của mỗi xã
hội, của mỗi gia đình, cũng như nghề nghiệp
của mỗi cá nhân.
Chăm sóc sức khoề người già từ phía xã
hội được biểu hiện trong các chính sách xã
hội, sự bù đắp về vật chất cũng như trong
việc hình thành và duy trì các hình thức sinh
hoạt tập thể. Ở nhiều quốc gia châu Âu, hệ
thống lương hưu và trợ cấp dưỡng lão được
xem như nguồn cung cấp chính để đảm bảo
thu nhập cho người cao tuổi.
Tại Thuy Điển, chế độ lương hưu tồn tại
từ năm 1980 bao gôm lương hưu cơ bản, phụ
cấp lương hưu và lương hưu toàn phần.
Lương hưu cơ bản được trả cho tất cả mọi
người từ 65 tuổi trở lên. Những người có
nguyện vọng có thể bắt đầu hưởng lương ở
tuổi trên 60 nhưng với mức thấp hơn, khoảng
6,95% thu nhập. Người dân Thuỵ Điển có thể
bắt đầu nhận lương hưu sau tuổi 65, nhưng
không vượt quá 70 tuổi, trong trường hợp
này, lương hưu cũng tăng tương ứng. Phụ cấp
hưu trí đầy đủ trả cho những người đã làm
việc tối thiểu là 30 năm, lương hưu căn cứ
vào thu nhập trung bình của giai đoạn “15
năm có thu nhập cao nhất”.2
2 Vũ Quang Hào, Báo chí và đào tạo báo chí Thuy
Điển, tr.40-41.
48 NGHIÊN CỨU CHÂU ÂU – EUROPEAN STUDIES REVIEW N°1 (88).2008
Môi trường xã hội có ảnh hưởng lớn đối
với vấn để chăm sóc sức khoẻ người già. Ở
các xã hội có nền kinh tế phát triển, xã hội
công nghiệp với lối sống đô thị hiện đại, con
người bị cuốn hút vào công việc, lo lắng cho
tương lai, người già dường như gần với quá
khứ nên ít được gia đình quan tâm. Đã có
nhiều cuộc nghiên cứu xã hội học trong nước
và quốc tế tìm hiểu nhu cầu sống chung giữa
các thế hệ. Hầu hết thanh niên, những cặp vợ
chồng kết hôn đã có con cái đều muốn có
điều kiện sống gần gũi, nhưng độc lập với
cha mẹ già. Những biến đổi này là tất yếu,
song cũng đáng lo ngại trong đời sống gia
đình đô thị hiện nay, đặc biệt là ở các nước
châu Á, khi mà đối với sức khoẻ người già,
nhất là sức khoẻ về tinh thần, môi trường gia
đình có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Tóm lại, có rất nhiều quan điểm khác
nhau về phát triển. Những lý luận về phát
triển và kém phát triển trước đây của số đông
các học giả phương Tây tập trung chủ yếu
vào khả năng tích lũy và đầu tư để tăng
trưởng kinh tế. Song phát triển không đồng
nghĩa với tăng trưởng, mặc dù trong quá trình
đó, tăng trưởng là chỉ tiêu quan trọng hàng
đầu. Nếu tăng trưởng chỉ để cập tới giá trị vật
chất thì phát triển còn chú trọng tới những
yếu tố khác, đó là giá trị văn hoá, tinh thần.
Phát triển xã hội có thể hiểu trong khuôn khổ
của một hình thái kinh tế – xã hội mới, tiến
bộ hơn, được hoàn thiện trên một nền tảng
cũ, song cũng có thể hiểu đó là quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Cho
đù hiểu theo cách nào thì khái niệm phát
triển xã hội cũng đều hướng tới sự văn minh,
tiến bộ và bên vững.
Những kết quả đạt được trong công cuộc
cải cách xã hội sau Thế chiến thứ II đã đánh
dấu một bước khởi đầu tốt đẹp và là cơ sở
cho những bước tiến tiếp theo của hầu hết
các quốc gia châu Âu. Lực lượng sản xuất
mới đã ra đời tương đối hoàn hảo dựa trên cơ
sở là sự phát triển của tin học và công nghệ
thông tin. Bước đột phá này kéo theo sự thay
đổi tận gốc tính chất của lực lượng sản xuất,
cơ cấu ngành nghề, sự phân bố sản xuất và
phân công lao động. Một nhịp sống hiện đại
ra đời, nhanh chóng lan rộng trên khắp các
quốc gia châu Âu và tạo nên sự thay đổi đáng
kể đối với toàn bộ đời sống xã hội. Theo đó,
con người trở thành trung tâm của những nỗ
lực phát triển kinh tế xã hội, tự do cá nhân
được để cao, hình ảnh về “cái tôi” được
khẳng định v.v… song cũng chính vì thế mà
nảy sinh nhiều vấn để phức tạp.
Lịch sử nhân loại đã trải qua nhiều giai
đoạn phát triển rất khác nhau, với mỗi mô
hình phát triển kinh tế lại có mô hình phát
triển xã hội tương ứng. Trong tất cả các giai
đoạn này, sự kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng
kinh tế, phát triển xã hội và tiến bộ xã hội
luôn là một bài toán khó. Cùng với thời gian,
con người ngày càng nhận thức sâu sắc và đi
đến chia sẻ với nhau rằng sự kết hợp hài hoà
đó sẽ giúp duy trì hệ thống chính trị, pháp
luật và xã hội ổn định cùng với chính sách
Phát triển xã hội…
kinh tế vĩ mô hiệu quả, tạo tiềm năng cho sự
thịnh vượng của một quốc gia, trong đó con
người là trung tâm của mọi mục tiêu phát
triển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo
trình Triết học Mác Lênin, Nxb Chính trị
Quốc gia.
2. Trần Thị Kim Dung (2001), Quan hệ
Việt Nam – Liên minh Châu Âu, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
3. Vũ Quang Hào, Báo chí và đào tạo
báo chí Thuỵ Điển, tr.39-40.
4. Bùi Huy Khoát (2001), Thúc đẩy
quan hệ thương mại – đầu tư giữa Liên hiệp
Châu Âu và Việt Nam trong những năm đầu
thế kỷ XXI, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
5. Thanh Lê (chủ biên) (2003), Xã hội
học phương Tây, Nxb Thanh niên.
6. Ngân hàng Thế giới, Tổ chức SIDA
Thuy Điển, Tổ chức AUSAID Úc, Đại sứ
quán Vương quốc Hà Lan cộng tác với Bộ Y
tế Việt Nam, Việt Nam khoẻ để phát triển
bền vững.
7. Phạm Xuân Nam (chủ biên) (2002),
Triết lý phát triển ở Việt Nam mấy vấn để
cốt yếu, Nxb Khoa học Xã hội.
49
8. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân
văn Quốc gia, Viện Xã hội học (1994),
Người cao tuổi và an sinh xã hội, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
9. Trung tâm Nghiên cứu Bắc Mỹ
(2003), Мỹ – Âu – Nhật: văn hoá và phát
triến, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
10. Viện Dụ báo Chiến lược Khoa học
và Công nghệ (1995), Việt Nam tâm nhìn
đến năm 2020, Nxb Chính trị Quốc gia.
11. Viện Khoa học xã hội Việt Nam,
Viện Nghiên cứu Châu Âu (2005), Các nước
Đông Âu gia nhập Liên minh Châu Âu và
những tác động tới Việt Nam, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
12. Viện Thông tin Khoa học Xã hội,
Con người và nguồn lực con người trong phát
triên, 1995.
13. http://www.delvnm.ec.europa.euleu
vn relations/bluebook2006/european union.
Tải ngày 15/09/2007.
http://www.banrep.gov.coleconomialseminempleo-econolponen-bertola.pdf. Tải ngày
15/09/2007.
http://www.nuff.ox.ac.uk/projects/ChangeQu
al/papers/public/themes/ /theme
247 WorkSection4Pochic PaugamSels.doc.
Tải ngày 10/10/2007.
http://www.opinionjournal.com/editoriallfeat
ure.html?id=110006768. Tài ngày
10/10/2007.
